[2] Về tố tụng:

 [2] Về tố tụng:

[2.1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: 

  • Các cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện đầy đủ, đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều và tại phiên tòa, các bị cáo, luật sư và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2.2] Về xác định tư cách tố tụng và thẩm quyền giải quyết vụ án:

  • Trước phiên Tòa, Tòa án nhận được văn bản của Luật sư Lê Quang Y và Luật sư Vũ Duy Nam thông báo bị cáo Tình và Sương từ chối Luật sư bào chữa chỉ định. Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Văn Tình và Nguyễn Thị Chí Sương xác định không đồng ý Luật sư do Tòa án đề nghị Đoàn Luật sư tỉnh Đồng Nai chỉ định vì có Luật sư của bị cáo và gia đình bị cáo yêu cầu là Luật sư Trần Việt Cường và Luật sư Trần Hải Đức. Do đó, HĐXX chấp nhận yêu cầu này của bị cáo và bổ sung tư cách người bào chữa cho bị cáo Tình và Sương là luật sư Trần Hải Đức. 
  • Tại phần xét hỏi, bà Lê Thị Minh, sinh năm 1950 có văn bản nộp cho Hội đồng xét xử về việc không yêu cầu Luật sư Trần Hải Đức bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp. Hội đồng xét xử xét đây là sự tự nguyện và quyền của bà Lê Thị Minh nên chấp nhận và chấm dứt tư cách người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà Minh đối với Luật sư Trần Hải Đức
  • Trước phiên tòa, HĐXX nhận được đơn đề nghị giải quyết của một số người bị hại yêu cầu đưa Công ty Sài Gòn cây cảnh vào tham gia tố tụng trong vụ án là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. HĐXX nhận thấy, khi ban hành Quyết định đưa vụ án ra xét xử Tòa án đã xác định tư cách và đưa vào tham gia tố tụng đối với Công ty TNHH Xây dựng - Thương mại - Dịch vụ Sài Gòn cây cảnh (sau chuyển thành Công ty Cổ phần Sài Gòn cây cảnh). 
  • Đồng thời, đối với những người Tòa án xác định tư cách người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan khi triệu tập xét xử. Tuy nhiên quá trình xét xử, Hội đồng xét xử xác định lại tư cách tham gia tố tụng là người làm chứng trong đó có bà Lê Thị Minh, sinh năm 1950 và bà Vũ Thị Tuyết Vân, sinh năm 1960. 
  • Đối với ý kiến của Luật sư Cường, Đức cho rằng các bị hại thực hiện việc ký kết hợp đồng và bị chiếm đoạt tài sản xảy ra ở thành phố Hồ Chí Minh nên thẩm quyền điều tra, truy tố, xét xử thuộc về thành phố Hồ Chí Minh, Hội đồng xét xử nhận thấy đối với việc xác định thẩm quyền này quá trình tiến hành tố tụng đã được Cơ quan điều tra Công an tỉnh Đồng Nai và Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai nhiều lần chuyển hồ sơ vụ án đến Cơ quan điều tra Công an thành phố Hồ Chí Minh và Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh để giải quyết theo thẩm quyền nhưng đều bị trả như đã nêu tại mục [2.2]
  • Đồng thời, sau khi Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh ra Bản án hình sự phúc thẩm số 11/2022/HS-PT, tuyên hủy Bản án hình sự sơ thẩm số 49/2019/HSST, giao hồ sơ cho Viện kiểm sát nhân dân tối cao để điều tra lại vụ án theo thủ tục chung đã truy tố đến Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai để đưa vụ án ra xét xử. Do đó, thẩm quyền điều tra, truy tố giai đoạn sau thuộc về Cơ quan cảnh sát điều tra Bộ công an, Viện kiểm sát nhân dân Tối cao và thẩm quyền xét xử thuộc về Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai nên ý kiến của các Luật sư là không có căn cứ để chấp nhận.

[2.3] Về giới hạn xét xử:

  • Quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đồng Nai và Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai xác định vụ án có 405 bị hại, bị chiếm đoạt số tiền tổng cộng 323.689.730.000 đồng. Trong quá trình chuẩn bị xét xử, HĐXX nhận thấy có 04 bị hại gồm bà Trương Thị Vân Anh, bà Nguyễn Ngọc Trang, bà Nguyễn Ngọc Hằng, ông Lê Tuấn Đông số tiền bị chiếm đoạt la 0 đồng, 17 bị hại (trừ bà Trương Thị Hường tại phụ lục 02 ban hành kèm Quyết định đưa vụ án ra xét xử) và bị hại Hà Lệ Phương (ban hành theo phụ lục kèm Cáo trạng) đã được cơ quan điều tra triệu tập nhưng không cung cấp địa chỉ hoặc địa chỉ không rõ ràng, thay đổi chỗ ở. 
  • Sau khi ban hành Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án tiếp tục nhận được đơn yêu cầu đính chính số tiền của các bị hại gồm ông Nguyễn Thanh Long, ông Tường Thiện Nhơn, ông Nguyễn Văn Quý, ông Lê Tuấn Đông, ông Trịnh Xuân Hinh, ông Phạm Tấn Thắng. Tuy nhiên, tại phiên tòa các bị hại này không cung cấp được bản chính Hợp đồng góp vốn và phiếu thu (trừ bị hại bà Trương Thị Hường), riêng đối với bị hại Nguyễn Văn Quý đề nghị bổ sung bà Nguyễn Ngọc Phương Thanh (là con gái ông) vào tham gia tư cách tố tụng là bị hại trong vụ án này, tuy nhiên tại biên bản ghi lời khai ngày 21/10/2022 (BL 4999- 5000) và ngày 13/9/2022 (BL 5004-5007) đều xác định ông Quý đứng tên giùm cho bà Thanh nên HĐXX xác định bổ sung tư cách bị hại đối với bà Trương Thị Hường, sinh năm 1976 và giành quyền khởi kiện bằng vụ án dân sự khác (khi có yêu cầu) đối với 04 bị hại (số tiền chiếm đoạt 0 đồng), bị hại Hà Lệ Phương và các bị hại khác không có thông tin cá nhân đầy đủ đã được cơ quan cảnh sát điều tra triệu tập nhưng không đến làm việc, không cung cấp hợp đồng, phiếu thu hoặc chưa đến cơ quan điều tra làm việc. 
  • Tương tự cũng tại phiên tòa những bị hại trình bày và gửi đơn đính chính số tiền bị thiệt hại chênh lệch so với Kết luận điều tra và Cáo trạng truy tố, số tiền hệ số góc hệ số K đã nộp tại Công ty xây dựng - bất động sản Nam Tiến nhưng không cung cấp được bản chính hợp đồng góp vốn, hợp đồng đặt cọc, phiếu thu để đối chiếu nên Hội đồng xét xử chưa có cơ sở để cập nhật điều chỉnh. Do đó, tách ra để các đương sự tranh chấp bằng vụ án dân sự khác khi có yêu cầu. 
  • Về số tiền chiếm đoạt chênh lệnh do số lượng bị hại lớn và số tiền khi các bị hại nộp có làm tròn số nên dẫn tới có sai sót về mặt toán học nhưng không làm thay đổi tội danh và điều, khoản đã truy tố, các bị cáo cũng không có ý kiến về nội dung này. 
  • Hội đồng xét xử xét thấy, do số lượng bị hại và số tiền chiếm đoạt mà đại diện Viện kiểm sát xác định tại phần luận tội không vượt quá giới hạn truy tố ban đầukhông làm xấu đi tình trạng của các bị cáo cũng như để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bị cáo, bị hại nên Hội đồng xét xử xác định lại các bị cáo đã chiếm đoạt của 406 bị hại với tổng số tiền 322.639.880.000đ (Ba trăm hai mươi hai tỷ sáu trăm ba mươi chín triệu tám trăm tám mươi ngàn đồng).

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét