[3] Về nội dung:
[3.1] Về hành vi của các bị cáo bị truy tố, tội danh và điều luật áp dụng:
Theo các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập có tại hồ sơ, đã có đủ cơ sở kết luận:
- Cuối năm 2006 Nguyễn Văn Tình và Nguyễn Thị Chí Sương, Giám đốc Công ty TNHH Xây dựng - Thương mại - Dịch vụ Sài Gòn Cây Cảnh (sau chuyển thành Công ty cổ phần Sài Gòn Cây Cảnh) làm hồ sơ xin các cấp có thẩm quyền phê duyệt xây dựng dự án khu dân cư Tam Phước, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai.
- Mặc dù chưa được UBND tỉnh Đồng Nai ra quyết định giao đất và cấp giấy chứng nhận đầu tư, giấy phép xây dựng; chưa có đủ điều kiện pháp lý theo quy định của Luật Đất đai, Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Nhà ở, để phân lô bán nền và không được phép huy động vốn. Nhưng Nguyễn Văn Tình và Nguyễn Thị Chí Sương cùng các đồng phạm Đặng Đức Trung, Đặng Trọng Nhân, Đinh Quốc Lực, Võ Hoàng Yến và Trần Đức Phương đã dùng thủ đoạn lợi dụng tư cách pháp nhân Công ty Sài Gòn Cây Cảnh đưa ra các thông tin quảng cáo, tiếp thị không đúng sự thật để những người bị hại tin tưởng đã cho Tình và Sương vay tiền và thông qua các Công ty bất động sản Hoàng Linh và Công ty xây dựng - bất động sản Nam Tiến đã ký “Hợp đồng góp vốn” sau đó chiếm đoạt tài sản. Từ năm 2006 đến 2010 Tình, Sương và các đồng phạm đã dùng thủ đoạn nêu trên lừa đảo chiếm đoạt của 406 người bị hại chiếm đoạt được tổng số 322.639.880.000 đồng. Cụ thể:
- Từ ngày 27/11/2006 đến 09/8/2010 các bị cáo Tình, Sương đã 08 lần sử dụng 05 thửa đất số 236, 237, 286, 180, 707 tờ bản đồ số 3, xã Tam Phước, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai để thế chấp cho Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam Chi nhánh Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh vay và đảm bảo cho người khác đứng tên vay hộ tổng cộng 36,05 tỷ đồng nhưng vẫn thế chấp cho vợ chồng ông Lê Đình Tài và bà Trần Thị Hải Yến để vay với số tiền 30.260.000.000đ (ngày 18/11/2007 vay 8.000.000.000đ, ngày 02/01/2009 vay 13.560.000.000đ, ngày 02/8/2009 vay 8.700.000.000đ) để chiếm đoạt số tiền trên. Trên 03 giấy vay này đều ghi tài sản thế chấp là toàn bộ nhà cửa, đất đai và dự án khu dân cư Tam Phước.
- Nguyễn Văn Tình và Nguyễn Thị Chí Sương có hành vi từ tháng 12/2006 đến tháng 12/2010 đã cùng đồng phạm dùng thủ đoạn gian dối, đưa ra thông tin sai sự thật về dự án khu dân cư Tam Phước, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai, ký hợp đồng góp vốn với 405 bị hại chiếm đoạt được 292.379.880.000 đồng;
- Đinh Quốc Lực và Võ Hoàng Yến có hành vi giúp sức Nguyễn Văn Tình và Nguyễn Thị Chí Sương dùng thủ đoạn gian dối, thông tin sai sự thật về dự án khu dân cư Tam Phước, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai, ký hợp đồng góp vốn, thỏa thuận đặt cọc bán 231 nền đất dự án khu dân cư Tam Phước với 198 bị hại chiếm đoạt được tổng số tiền là 57.537.030.000 đồng. Đinh Quốc Lực hưởng lợi 6.539.160.000 đồng; Võ Hoàng Yến hưởng lợi 1.384.920.000 đồng.
- Đặng Trọng Nhân có hành vi trực tiếp đến Công ty Nam Tiến đối chiếu danh sách khách hàng, tiền hoa hồng và ký nhận tiền của Công ty Nam Tiến về giao cho Nguyễn Văn Tình, Nguyễn Thị Chí Sương, Đặng Đức Trung, rồi chuyển hợp đồng, phiếu thu tổng số tiền 27.773.018.000 đồng của Công ty Sài Gòn cây cảnh cho Công ty Nam Tiến để trả cho bị hại, được hưởng lợi 466.458.000 đồng.
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 2 Nghị Quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội, hành vi nêu trên của các bị cáo Nguyễn Văn Tình, Nguyễn Thị Chí Sương, Đinh Quốc Lực, Võ Hoàng Yến và Đặng Trọng Nhân đã phạm vào tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” được quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 BLHS 2015 như Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3.2] Đánh giá về tính chất, mức độ, hành vi của các bị cáo:
- Công ty Sài Gòn Cây Cảnh chỉ mới được Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai chấp thuận địa điểm cho phép xây dựng dự án khu dân cư Tam Phước theo văn bản 5762 ngày 26/7/2007 và phê duyệt hồ sơ quy hoạch chi tiết tỷ lệ 1/500. Chưa có quyết định thu hồi đất, giao đất, giấy phép đầu tư xây dựng của cơ quan có thẩm quyền, chưa thực hiện việc giải tỏa, đền bù.
- Nhưng ngày 20/02/2008 bị cáo Nguyễn Văn Tình đã ký hợp đồng với Công ty cổ phần và phát triển bất động sản Hoàng Linh làm đại lý độc quyền bán nền đất dự án khu dân cư Tam Phước. Nên ngày 06/8/2008 các Sở, ban, ngành liên quan của tỉnh Đồng Nai đã tổ chức họp theo báo cáo kết quả cuộc họp số 423/BC-SKHĐT đã kết luận Công ty Sài Gòn Cây Cảnh tự phân lô bán nền khi chưa đủ điều kiện pháp lý, chưa có đủ thủ tục đầu tư theo quy định luật đất đai, Luật kinh doanh bất động sản, Luật Nhà ở... Công ty Sài Gòn Cây Cảnh không được phép huy động vốn bằng hình thức Hợp đồng góp vốn đầu tư. Tuy nhiên, Công ty Sài Gòn Cây Cảnh đã biết có Kết luận nhưng các bị cáo Tình và Sương vẫn tiếp tục thực hiện và nhận tiền của rất nhiều người người bị hại.
- Trong tổng diện tích dự án khu dân cư Tam Phước 157 ha có 10,2 ha đất các bị cáo Tình và Sương được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hợp pháp nhưng toàn bộ diện tích 10,2ha đất các bị cáo Tình và Sương đã thế chấp cho Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam - chi nhánh Quận 1 để vay vốn năm 2008.
- Tại thời điểm bị bắt vẫn còn nợ Ngân hàng hơn 12 tỷ đồng nhưng ngày 15/5/2008 các bị cáo Tình và Sương đã thông qua Công ty môi giới ký hợp đồng góp vốn với nhiều người. Hành vi phạm tội của các bị cáo gây ra là đặc biệt nghiêm trọng, chiếm đoạt số lượng tài sản lớn, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình trật tự trị an tại địa phương, gây thiệt hại tài sản cho rất nhiều người đến nay chưa thu hồi hoàn trả lại tiền cho bị hại được. Do đó, cần xử phạt các bị cáo mức hình phạt thật nghiêm nhằm cải tạo, giáo dục các bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung.
[3.3] Về trách nhiệm hành vi của từng bị cáo gây ra trong vụ án này:
Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Văn Tình và Nguyễn Thị Chí Sương không thừa nhận hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của ông Lê Đình Tài và bà Trần Thị Hải Yến. Chỉ thừa nhận hành vi phạm tội đối với hơn 400 bị hại. Tuy nhiên căn cứ vào các tài liệu chứng cứ đã thu thập ltrong hồ sơ vụ án thể hiện:
- Nguyễn Văn Tình và Nguyễn Thị Chí Sương có hành vi từ tháng 12/2006 đến tháng 12/2010 đã cùng đồng phạm dùng thủ đoạn gian dối, đưa ra thông tin sai sự thật về dự án khu dân cư Tam Phước, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai, ký hợp đồng góp vốn với hơn 405 bị hại chiếm đoạt được 292.379.880.000 đồng (tính đến thời điểm xét xử vụ án ngày 18/12/2023) ;
- từ ngày 18/11/2007 đến ngày 02/8/2009, Nguyễn Văn Tình và Nguyễn Thị Chí Sương đã dùng thủ đoạn thế chấp các giấy chứng nhận quyền sử dụng 05 thửa đất đã thế chấp cho Ngân hàng trước đó để ký thế chấp cho vợ chồng ông Lê Đình Tài, bà Trần Thị Hải Yến chiếm đoạt được 30.260.000.000 đồng. Như vậy, bị cáo Tình, Sương đã có hành vi gian dối trong quá trình vay tiền của ông Tài, bà Yến khi dùng chính các thửa đất đang thế chấp ngân hàng và đang bán cho những người bị khác. Do đó, hành vi của các bị cáo Tình, Sương đủ cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” đối với bị hại là ông Lê Đình Tài, bà Trần Thị Hải Yến. Quá trình điều tra, các bị cáo Tình, Sương khai về số tiền vay của vợ chồng ông Tài, bà Yến đã sử dụng vào đầu tư Dự án khu dân cư Tam Phước và mua cho ông Tài 02 xe ô tô (01 xe nhãn hiệu Lexus, 01 xe nhãn hiệu Bentley Flying Spur) cho ông Tài hết 12 tỷ đồng. Tuy nhiên, căn cứ vào hợp đồng mua xe số 06-T4 ngày 22/4/2008 thể hiện bên bán là Công ty TNHH Kim Thái Anh, do ông Nguyễn Xuân Hùng, Giám đốc - đại diện, bên mua là Công ty TNHH Thương mại và Dịch vụ Hà Linh do bà Võ Thị Hoàng Hà - Giám đốc, làm đại diện; toàn bộ hồ sơ hợp đồng mua bán, các chứng từ, hoá đơn giá trị gia tăng, tờ khai lệ phí trước bạ, giấy nộp tiền trước bạ và giấy đăng ký xe đều thể hiện người mua và trả tiền cho 02 chiếc xe là Công ty TNHH Thượng mại và Dịch vụ Hà Linh. Đối với chiếc xe Bentley, ông Nguyễn Xuân Hùng – Giám đốc Công ty TNHH Kim Thái Anh khai đã bán và xuất hóa đơn cho Công ty Hà Linh với số tiền 6.242.500.000đ. Xe ô tô nhãn hiệu Lexus, ông Nguyễn Duy Linh – Giám đốc Công ty TNHH Thương Mại An Khang khai giá chiếc xe trên là 1.452.000.000đ, ông Linh không nhớ ai là người thanh toán, nhưng hoá đơn xuất cho Công ty TNHH Thương mại và Dịch vụ Hà Linh. Như vậy, giá 02 chiếc xe là 7.694.500.000đ chứ không phải 12 tỷ đồng như vợ chồng bị cáo Tình, Sương khai. Do vậy, lời khai của bị cáo Nguyễn Văn Tình về việc trả tiền mua 02 xe ô tô nói trên cho ông Tài là không có căn cứ.
- Về số tiền 9.004.500.000đ: Ngày 19/02/2008, bị cáo Nguyễn Văn Tình chỉ đạo Nguyễn Hữu Thành đến Chi nhánh ngân hàng phát triển nhà Đồng Bằng Sông Cửu Long - Chi nhánh Đồng Nai gặp ông Lê Đình Tài để lấy tiền. Đến ngân hàng, ông Thành được ông Tài đưa số tiền 9.004.500.000đ, ông Thành đã viết giấy nhận tiền với nội dung “Nguyễn Hữu Thành là nhân viên Công ty Sài Gòn Cây Cảnh có nhận số tiền 9.004.500.000đ tại ngân hàng MHB”. Sau khi nhận số tiền trên ông Thành đã giao lại cho các bị cáo Nguyễn Văn Tình và Nguyễn Thị Chí Sương tại số 244 Nguyễn Văn Hưởng, phường Thảo Điền, Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh. Sau đó, ông Thành đã yêu cầu các bị cáo Tình, Sương ghi và ký giấy nhận tiền đề ngày 22/4/2009 với nội dung “có mượn ông Lê Đình Tài số tiền 9.004.500.000đ tại ngân hàng phát triển nhà ĐBSCL. Sau khi ông Tài làm xong thủ tục ký rút tiền, bị cáo Tình và ông Tài bận đi huyện Tân Thành nên nhờ ông Thành nhận dùm và đem về giao lại cho vợ chồng tôi. Mọi việc về sau không liên quan đến ông Thành nữa”. Ông Tài cho rằng, số tiền 9.004.500.000đ là tiền ông Tài cho ông Thành vay để góp vốn đầu tư xây dựng Dự án khu dân cư Tam Phước, chứ không phải cho bị cáo Tình vay. Nội dung này, vợ chồng bị cáo Tình, Sương khai nhận có vay của vợ chồng ông Tài, nhờ ông Nguyễn Hữu Thành nhận hộ, phù hợp với lời khai ông Nguyễn Hữu Thành. Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an đã tiến hành đối chất giữa ông Tài và ông Thành nhưng ông Tài và ông Thành vẫn giữ nguyên lời khai của mình. Căn cứ tài liệu có trong hồ sơ có đủ cơ sở kết luận Nguyễn Hữu Thành nhận số tiền 9.004.500.000đ từ ông Tài tại Ngân hàng phát triển nhà Đồng Bằng Sông Cửu Long - Chi nhánh Đồng Nai và viết giấy nhận tiền; sau khi nhận tiền, ông Thành đã về giao cho vợ chồng bị cáo Tình, Sương.
- Như đã phân tích trên, Bị cáo Nguyễn Văn Tình là người chủ mưu và thực hiện tích cực hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản nên mức hình phạt của bị cáo Tình là cao nhất. Bị cáo Nguyễn Thị Chí Sương là người đồng phạm, cùng thực hiện và giúp sức tích cực cho bị cáo Tình phạm tội và gây hậu quả lớn cho nhiều người bị hại, Hội đồng xét xử xem xét mức hình phạt tương xứng hành vi của bị cáo Sương nhưng nhẹ so với bị cáo Tình. Do đó, cần buộc bị cáo Tình và Sương phải chịu trách nhiệm chính và cần có mức hình phạt thật nghiêm đối với các bị cáo cũng như cần buộc các bị cáo phải chịu trách nhiệm bồi thường toàn bộ thiệt hại cho bị hại.
- Đinh Quốc Lực là nhân viên Công ty cổ phần đầu tư và phát triển bất động sản Hoàng Linh (do ông Phan Trung Kỳ làm Giám đốc) đã liên hệ và được Tình cung cấp các văn bản do UBND tỉnh Đồng Nai phê duyệt gồm: Quyết định số 5762/UBND chấp thuận địa điểm; Quyết định số 3561/QĐ-UBND về việc giao nhiệm vụ quy hoạch chi tiết xây dựng tỷ lệ 1/500 Khu dân cư Tam Phước; Quyết định số 4621/QĐ-UBT phê duyệt phương án tổng thể bồi thường, hỗ trợ tái định cư và bản sơ đồ phân lô theo quy hoạch chi tiết xây dựng tỷ lệ 1/500 do Tình tự thuê đơn vị làm dịch vụ lập, 05 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất diện tích 10,2 ha do Tình và Sương đứng tên quyền sử dụng tại Khu dân cư Tam Phước.
- Đinh Quốc Lực đã bàn bạc với Võ Hoàng Yến - Trưởng Văn phòng đại diện Công ty Hoàng Linh đặt tại 688, Sư Vạn Hạnh, Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh về việc ký hợp đồng môi giới độc quyền dự án khu dân cư Tam Phước với Công ty Sài Gòn Cây Cảnh; Yến đồng ý cùng Lực đến Công ty Sài Gòn Cây Cảnh gặp Tình thỏa thuận sẽ phân phối 350 nền đất tại dự án, thống nhất huy động góp vốn mỗi nền là 100 triệu đồng.
- Hành vi của các bị cáo Đinh Quốc Lực và Võ Hoàng Yến giúp sức Nguyễn Văn Tình và Nguyễn Thị Chí Sương dùng thủ đoạn gian dối, thông tin sai sự thật về dự án khu dân cư Tam Phước, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai, ký hợp đồng góp vốn, thỏa thuận đặt cọc bán 231 nền đất dự án khu dân cư Tam Phước với 198 bị hại chiếm đoạt được tổng số tiền là 57.537.030.000 đồng. Đinh Quốc Lực hưởng lợi 6.539.160.000 đồng; Võ Hoàng Yến hưởng lợi 1.384.920.000 đồng. Bị cáo Lực và Yến là người tham gia với vai trò đồng phạm giúp sức tích cực cho bị cáo Tình và Sương chiếm đoạt số tiền lớn của nhiều người bị hại. Do đó cần áp dụng mức hình phạt phù hợp tính chất, mức độ hành vi phạm tội của từng bị cáo nhằm răng đe, giáo dục, phòng ngừa chung. Mức hình phạt của bị cáo Lực và Yến thấp hơn bị cáo Sương nhưng cao hơn bị cáo Nhân.
- Bị cáo Đặng Trọng Nhân là Phó Giám đốc dự án khu dân cư Tam Phước. Mặc dù biết rõ dự án Khu dân cư Tam Phước chưa hoàn thiện thủ tục pháp lý, Công ty Sài Gòn Cây Cảnh đang bị các cơ quan chức năng tỉnh Đồng Nai yêu cầu dừng ngay việc phân lô bán nền đất dự án, nhưng thông qua Phạm Trí Đức, Đặng Đức Trung với Trần Đức Phương thực hiện dịch vụ môi giới bán các lô đất nền thuộc dự án khu đô thị Tam Phước, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai, thoả thuận Phương kê giá đất lên thêm so với giá gốc của chủ đầu tư và phụ thu của khách hàng loại phí theo vị trí của từng nền đất từ 20 triệu - 120 triệu đồng/nền (gọi là hệ số đường, hệ số góc). Trần Đức Phương được hưởng 3% tổng giá trị hợp đồng góp vốn và 50% tiền “hệ số đường”, “hệ số góc”.
- Tiền phí dịch vụ môi giới 200.000đ/m2 sau khi trừ đi số tiền Phương được hưởng, còn lại Trung, Nhân và Đức được hưởng. Bị cáo Đặng Trọng Nhân có hành vi trực tiếp đến Công ty Nam Tiến đối chiếu danh sách khách hàng, tiền hoa hồng và ký nhận tiền của Công ty Nam Tiến về giao cho Nguyễn Văn Tình, Nguyễn Thị Chí Sương, Đặng Đức Trung, rồi chuyển hợp đồng, phiếu thu tổng số tiền 27.773.018.000 đồng của Công ty Sài Gòn Cây Cảnh cho Công ty Nam Tiến để trả cho bị hại, bị cáo Nhân được hưởng lợi 466.458.000 đồng. Bị cáo Nhân là người tham gia với vai trò đồng phạm giúp sức cho bị cáo Tình và Sương chiếm đoạt tiền của người bị hại. Do đó cần áp dụng mức hình phạt phù hợp tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo nhằm răng đe, giáo dục, phòng ngừa chung.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét