Bản án hình sự sơ thẩm số 204/2023/HS-ST ngày 20/12/2023 Vụ án bị cáo Nguyễn Văn Tình và Đồng phạm bị xét xử về Tội” Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 174 BLHS năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017)


TÒA ÁN NHÂN DÂN

TỈNH ĐỒNG NAI

------------------------------------

Bản án số: 204/2023/HS-ST

Ngày: 20 - 12 - 2023

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

NHÂN DANH

NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI

- Thành phần hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:

Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Hoàng Thị Thu Minh.

Thẩm phán: Bà Nguyễn Thị Quyên.

Các Hội thẩm nhân dân: Ông Nguyễn Văn Chiến.

Bà Nguyễn Thị Ngọc Hiệp.

Bà Lê Thị Điền.

- Thư ký phiên tòa: Ông Nguyễn Tuấn Anh - Thư ký TAND tỉnh Đồng Nai.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai tham gia phiên tòa: Ông

Nguyễn Chính Tâm và bà Nguyễn Thị Nương – Kiểm sát viên trung cấp.

Trong các ngày 18, 19 và 20 tháng 12 năm 2023, tại Hội trường số 3 trụ sở

Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 202/2023/HSST ngày 04 tháng 10 năm 2023 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 219/2023/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 10 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 107/2023/HSST-QĐ ngày 20 tháng 11 năm 2023, đối với các bị cáo:

1. Họ tên: Nguyễn Văn Tình, sinh ngày 10/7/1962. Nơi sinh: tại Thành phố Hồ Chí Minh; Giới tính: Nam. Tên gọi khác: không có; Nơi ĐKHKTT: Số 2, đường số 7, Khu phố 1, phường Thảo Điền, Quận 2, (nay là thành phố Thủ Đức), Thành phố Hồ Chí Minh; Chỗ ở: Số 244 Nguyễn Văn Hưởng, phường Thảo Điền, Quận 2, (nay là thành phố Thủ Đức), Thành phố Hồ Chí Minh; Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Phật. Trình độ học vấn: 9/12. Nghề nghiệp: Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Sài Gòn Cây Cảnh. Con ông Nguyễn Văn Dần, sinh năm 1925 (đã chết). Con bà Phạm Thị Bảy, sinh năm 1927. Gia đình có 10 anh chị em, bị cáo là con thứ sáu. Vợ Nguyễn Thị Chí Sương, sinh năm 1967, là bị cáo trong vụ án. Và có 03 người con, lớn nhất sinh năm 1992; nhỏ nhất sinh năm 2005.Tiền án, tiền sự: Không có. Bị bắt từ ngày 04/11/2010, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam B5 Công an tỉnh Đồng Nai. (Có mặt)

2. Họ tên: Nguyễn Thị Chí Sương, sinh ngày: 16/11/1967. Nơi sinh: Tại Thành phố Hồ Chí Minh; Giới tính: Nữ. Tên gọi khác: không có. Nơi ĐKHKTT: Số 2, đường số 7, Khu phố 1, phường Thảo Điền, Quận 2, (nay là thành phố Thủ Đức), Thành phố Hồ Chí Minh; Chỗ ở: Số 244 Nguyễn Văn Hưởng, phường Thảo Điền, Quận 2, (nay là thành phố Thủ Đức), Thành phố Hồ Chí Minh. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Phật. Trình độ học vấn: 12/12. Nghề nghiệp: Phó Giám đốc Công ty cổ phần Sài Gòn Cây Cảnh. Con ông Nguyễn Hảo Nghĩa, sinh năm 1938 (đã chết). Con bà Nguyễn Thị Bưu, sinh năm 1939 (già yếu). Gia đình có 08 anh chị em, bị cáo là con thứ năm; Chồng là bị cáo Nguyễn Văn Tình trong vụ án. Và có 03 con, lớn nhất sinh năm 1992, nhỏ nhất sinh năm 2005;Tiền án, tiền sự: Không. Bị bắt tạm giam từ ngày 14/02/2011, đến ngày 20/01/2012 được tại ngoại. Bị bắt lại vào ngày 24/10/2012. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam B5 Công an tỉnh Đồng Nai. (Có mặt)

3. Họ tên: Đinh Quốc Lực, sinh ngày 03/7/1976; Nơi sinh: tại tỉnh Phú Yên; Giới tính: Nam. Tên gọi khác: không có; Nơi ĐKHKTT: Số cũ 596/2 (số mới 562/1) Nguyễn Kiệm, Phường 4, quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh. Nơi ở: Số F001 Chung cư A4, Phường 7, quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Trình độ học vấn: 12/12. Nghề nghiệp: Kinh doanh quán cà phê. Con ông Đinh Luận, không nhớ năm sinh (đã chết). Con bà Nguyễn Thị Ái Vân, không nhớ năm sinh (82 tuổi). Gia đình có 06 chị em, bị cáo là con út. Vợ Nguyễn Thị Ngọc Thuý, đã ly hôn (năm 2012- 2013). Có 01 con Đinh Tuấn Quốc, sinh năm 2008. Tiền án, tiền sự: Không. Bị bắt từ ngày 18/11/2022, Đang bị tạm giam tại Trại tạm giam B5 Công an tỉnh Đồng Nai. (Có mặt)

4. Họ tên: Võ Hoàng Yến, sinh ngày: 17/3/1978; Nơi sinh: tại tỉnh An Giang; Giới tính: Nữ. Tên gọi khác: không có; Nơi ĐKHKTT: Số 42B Lê Thị Nhiên, phường Mỹ Long, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang; Nơi ở: K03-38 Kingston Residence, số 146 Nguyễn Văn Trỗi, Phường 8, quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh; Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Công giáo. Trình độ học vấn: 12/12. Nghề nghiệp: Kinh doanh bất động sản. Con ông Võ Hoàng Mến, sinh năm 1950. Con bà Huỳnh Thị Năm, sinh năm 1954. Gia đình có 02 chị em, bị cáo là con út. Chồng Bảo Quân, đã ly hôn (năm 2019); và có 01 con Bảo Gia Hân, sinh năm 2010 Tiền án, tiền sự: Không. Bị bắt từ ngày 18/11/2022. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam B5 Công an tỉnh Đồng Nai.

5. Họ tên: Đặng Trọng Nhân, sinh ngày: 20/8/1980; Nơi sinh: tại Thành phố Hồ Chí Minh; Giới tính: Nam. Tên gọi khác: không; Nơi ĐKHKTT: Số 59, đường 21A, phường Bình Trị Đông B, quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh; Địa chỉ hiện tại: 92/2B đường 29 phường Bình Trị Đông B, quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Phật; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 12/12; Con ông: Đặng Thành Chức, sinh năm 1957 (đã chết). Con bà: Mã Cẩm Bông, sinh năm 1955 (đã chết). Gia đình có 04 chị em, bị cáo là con út. Vợ Nguyễn Thị Yến Quỳnh, sinh năm 1980 (ly hôn năm 2006). Con Đặng Nguyễn Yến Nhi, sinh năm: 2005. Vợ tên Trần Mỹ Ý, sinh năm 1982, có 03 con, con lớn nhất sinh năm 2009 và nhỏ nhất sinh năm 2014. Tiền án, tiền sự: Không. Hiện bị cáo đang được tại ngoại tại nơi cư trú. (Bị cáo bị tạm giam từ ngày 23/01/2014 đến 03/4/2015) (Có mặt)

- Người bào chữa:

1. Người bào chữa cho các bị cáo Nguyễn Văn Tình và Nguyễn Thị Chí Sương: Luật sư Trần Việt Cường - Công ty Luật hợp danh Sài Thành, thuộc Đoàn luật sư tỉnh Nam Định. Địa chỉ: 932 Trần Hưng Đạo, phường 7, quận 5, Hồ Chí Minh. (Có mặt)

Luật sư Trần Hải Đức- Văn phòng luật sư Trần Hải Đức - thuộc Đoàn luật sư thành phố Hồ Chí Minh. Địa chỉ: 259A (tầng 8) Hai Bà trưng, phường 6, Quận 3, thành phố Hồ Chí Minh. (Có mặt)

2. Người bào chữa cho các bị cáo Đinh Quốc Lực và Võ Hoàng Yến: Luật sư Nguyễn Hữu Thế Thạch - Thuộc Công ty Luật TNHH MTV An Pha Na, thuộc Đoàn luật sư Tp.Hồ Chí Minh. Địa chỉ: 210/1A, Hồ Văn Huê, phường 9, quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh. (Có mặt)

3. Người bào chữa cho bị cáo Đặng Trọng Nhân: Luật sư Vũ Duy Nam thuộc Công ty luật YVNLAW, thuộc Đoàn luật sư tỉnh Đồng Nai. Địa chỉ: 15A Võ Thị Sáu, phường Quyết Thắng, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. (Có mặt)

- Người bị hại: Danh sách gồm 405 bị hại (theo Phụ lục kèm Bản án)

- Người bị hại đồng thời là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Ông Lê Đình Tài, sinh năm 1950 và bà Trần Thị Hải Yến, sinh năm 1954. Địa chỉ: 184/19B, khu phố 4, phường Tân Tiến, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. (vắng mặt)

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại Lê Đình Tài và Trần Thị Hải Yến: Luật sư Hoàng Như Vĩnh - VPLS Hoàng Như Vĩnh thuộc Đoàn luật sư tỉnh Đồng Nai. Địa chỉ: B22 Đường Nguyễn Ái Quốc, Khu phố 2, Phường Tân Hiệp, Thành phố Biên Hoà, Đồng Nai. (Có mặt)

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại Hoàng Trọng Nguyên:

Luật sư Võ Văn Đông- Công ty Luật TNHH M&K (nay đổi tên là Công ty Luật TNHH Mido). Địa chỉ: 15/19/3 Ụ Ghe, Phường Tam Phú, TP. Thủ Đức, TP. Hồ Chí Minh. (vắng mặt)

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại Nguyễn Thị Điệp: Luật sư Đỗ Hữu Đĩnh- Công ty Luật TNHH Việt Kim - chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh. Địa chỉ: 40/21 Bàu Cát 2, phường 14, quận Tân Bình, TP. Hồ Chí Minh (Có mặt)

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. Công ty TNHH Xây dựng - Thương mại - Dịch vụ Sài Gòn cây cảnh (sau chuyển thành Công ty Cổ phần Sài Gòn cây cảnh) Địa chỉ: 244 Nguyễn Văn Hưởng, phường Thảo Điền, Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh (nay là thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh). (vắng mặt)

2. Công ty TNHH Thương mại và Dịch vụ Hà Linh

Địa chỉ: ấp Tân Thành, Quốc lộ 1, xã Bắc Sơn, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai. (nay là Công ty TNHH Lê Hương Sơn. Địa chỉ: số 16 đường Phan Đăng Lưu, khu phố 7, phường Long Bình, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.)

3. Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam - chi nhánh Quận 1, TP. Hồ Chí Minh.

Địa chỉ: Số 428 Võ Văn Kiệt, Phường Cô Giang, Quận 1, Thành Phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)

4. Công ty Cổ phần đầu tư và phát triển Bất động sản Hoàng Linh. (vắng mặt)

Địa chỉ: 688 Sư Vạn Hạnh, phường 12, quận 10, Hồ Chí Minh.

Địa chỉ: 796/17 Trường Sa, Phường 14, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh.

5. Công ty Dịch vụ đầu tư Bất động sản Nam Tiến. (vắng mặt)

Địa chỉ: B5-B6 KDC Kim Sơn, Nguyễn Hữu Thọ, Tân Phong, Quận 7, TP. Hồ Chí Minh

6. Công ty TNHH TMDV Sài Gòn Phố. (vắng mặt)

Địa chỉ: 015 Lô A Cư xá Hùng Vương, phường 11, quận 5, Hồ Chí Minh. (Hiện nay đã giải thể theo Thông báo số 15165/12 ngày 17/01/2012 của Phòng đăng ký kinh doanh – Sở kế hoạch và đầu tư thành phố Hồ Chí Minh) Địa chỉ: 467 Hồng Bàng, phường 14, quận 5, Hồ Chí Minh.

7. Cục Thi hành án dân sự tỉnh Đồng Nai.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Trần Tân Phong, sinh năm 1972 – Chấp hành viên Cục thi hành án dân sự tỉnh Đồng Nai. (Có mặt)

Địa chỉ: đường Võ Thị Sáu, Thống Nhất, Thành phố Biên Hòa, Đồng Nai

8. Ông Nguyễn Hữu Thành, sinh năm 1967. (Có mặt). Địa chỉ: 91 Ngô Tất Tố, phường 21, quận Bình Thạnh, Hồ Chí Minh.

Địa chỉ liên hệ: 149 Cách mạng tháng Tám, phường An Thới, quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ.

9. Bà Lê Anh Ngọc Dung, sinh năm 1981. (Có mặt)

Địa chỉ: 25/2A Huỳnh Mẫn Đạt, phường 19, quận Bình Thạnh, Hồ Chí Minh.

10. Ông Phan Trung Kỳ, sinh năm 1975. (vắng mặt). Địa chỉ: 436A/139 đường 3/2, phường 12, quận 10, Hồ Chí Minh.. Địa chỉ liên lạc: số 38 KDC Ngân Long, xã Phước Kiển, huyện Nhà Bè, Hồ Chí Minh

11. Ông Phạm Trí Đức, sinh năm 1967. (Có mặt) Địa chỉ: 163/19/9 Tô Hiến Thành, phường 13, quận 10, Hồ Chí Minh.

12. Bà Lê Thị Kim Dung, sinh năm 1963. (Có mặt) Địa chỉ: 116 Điện Biên Phủ, phường Đa Kao, quận 1, Hồ Chí Minh.

13. Ông Võ Tấn Đạt, sinh năm 1968. (vắng mặt) Địa chỉ: 663 Nguyễn Tri Phương, khu 9, phường Chánh Nghĩa, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương.

14. Ông Nguyễn Phạm Thanh, sinh năm 1962. (vắng mặt) Địa chỉ: 297/269 Huỳnh Văn Bánh, phường 11, Quận Phú Nhuận, TP Hồ Chí Minh. Địa chỉ liên hệ: 88 Trường Sa, Phường 17, Quận Bình Thạnh, TP Hồ Chí Minh. Đại diện ủy quyền Ông Trần Duy Lượng, sinh năm 1976. (có mặt)Địa chỉ: 1231/12/7/1 tỉnh lộ 43, tổ 5, khu phố 2, phường Bình Chiểu, Thủ Đức, TP Hồ Chí Minh. Địa chỉ liên hệ: 40 đường Nguyễn Thành Phương, khu phố 6, phường Thống Nhất, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

15. Bà Mai Thị Cẩm Nguyệt, sinh năm 1987. (vắng mặt) Địa chỉ: D5/45 ấp 4, xã Hưng Long, huyện Bình Chánh, TP. Hồ Chí Minh.

16. Ông Nguyễn Hữu Phước, sinh năm 1962. (vắng mặt)Địa chỉ: 65 Nguyễn Khoái, phường 1, quận 4, Hồ Chí Minh.

17. Ông Trần Thời, sinh năm 1944. (vắng mặt)Địa chỉ: 1161/3G đường APB 25, tổ 54, khu phố 3, phường An Phú Đông, quận 12, Hồ Chí Minh.

18. Bà Võ Thị Hoàng Hà, sinh năm 1958. (vắng mặt) Địa chỉ: 120/4B Trần Quốc Thảo, phường 7, quận 3, Hồ Chí Minh

19. Ông Võ Hoàng Chương, sinh năm 1976. (vắng mặt)

Địa chỉ: 436A/139 đường 3/2 phường 12, quận 10, Hồ Chí Minh

20. Ông Phan Thống Nhất, sinh năm 1977. (vắng mặt). Địa chỉ: Ấp Bình Hòa 2, xã Mỹ Khánh, TP. Long Xuyên, An Giang

21. Ông Ngô Văn Nam, sinh năm 1977. (vắng mặt) Địa chỉ: số 9 đường 45, khu phố 5, phường Bình Thuận, quận 7, Hồ Chí

Minh.

22. Bà Võ Thị Hồng Thu, sinh năm 1960. (vắng mặt)Địa chỉ: 120/4B Trần Quốc Thảo, phường 7, quận 3, Hồ Chí Minh.

23. Bà Lê Thị Phượng Liên, sinh năm 1986. (vắng mặt)Địa chỉ: Căn hộ 610 lầu 6 CC Lakai Nguyễn Tri Phương, phường 7, quận 5, Hồ Chí Minh

24. Ông Lê Văn Huân, sinh năm 1956. (vắng mặt)Địa chỉ: Căn hộ 610 lầu 6 CC Lakai Nguyễn Tri Phương, phường 7, quận 5,Hồ Chí Minh

25. Bà Nguyễn Thị Mỹ Ngọc, sinh năm 1987. (vắng mặt)Địa chỉ: 24 đường 902 Tạ Quang Bửu, phường 5, quận 8, Hồ Chí Minh

26. Ông Nguyễn Vũ Phong, sinh năm 1978. (vắng mặt)Địa chỉ: 231/2A Bùi Thị Xuân, phường 1, quận Tân Bình, Hồ Chí Minh

27. Ông Nguyễn Minh Thọ, sinh năm 1978. (vắng mặt)Địa chỉ: 214 Điện Biên Phủ, phường Võ Thị Sáu, quận 3, Hồ Chí MinhNgười đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Hữu Cung, sinh năm 1973.

28. Ông Vũ Văn Lương, sinh năm 1963. (vắng mặt)Địa chỉ: B1/1 Gò Cẩm Điện, phường 10, quận Tân Bình, Hồ Chí Minh

29. Ông Lư Văn Kiện Em, sinh năm 1976. (vắng mặt)Địa chỉ: Ấp Cây Dương, xã Thanh Mỹ, huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh.

30. Bà Lê Kim Loan, sinh năm 1969. (vắng mặt)Địa chỉ: 18/24 đường Thanh Đa, phường 27, quận Bình Thạnh, Hồ Chí Minh

31. Bà Dương Thị Tuyết Diễm, sinh năm 1981 (vắng mặt)Địa chỉ: 39/11 Huỳnh Văn Bánh, phường 17, quận Phú Nhuận, Hồ Chí Minh

32. Ông Lê Hoàng Long, sinh năm 1960. (vắng mặt)Địa chỉ: số 2 đường 13, phường Tân Thuận Tây, cư xá Ngân hàng, quận 7, Hồ Chí Minh

33. Bà Mai Thị Thùy Lan, sinh năm 1974. (Có mặt)Địa chỉ: số 13 đường Sơn Hưng, khu phố 1, phường 12, quận Tân Bình, Hồ Chí Minh.Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà Lan: Luật sư Nguyễn Thị Hà Nhi – Văn phòng luật sư Nguyễn Hà Nhi đoàn Luật sư thành phố Hồ Chí Minh.(Có mặt)

34. Ông Huỳnh Định, sinh năm 1965. (vắng mặt) Địa chỉ: 3 đường 8, khu phố 4, phường Linh Chiểu, thành phố Thủ Đức, Hồ Chí Minh

35. Ông Đào Hải Hùng, sinh năm 1965. (vắng mặt) Địa chỉ: 157/S7 Tô Hiến Thành, phường 12, quận 10, TP. Hồ Chí Minh.

36. Ông Nguyễn Xuân An, sinh năm 1947. (vắng mặt) Địa chỉ: tổ 4, khu phố 3, thị trấn Vĩnh An, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai.

37. Bà Lê Thị Hữu, sinh năm 1971. (vắng mặt) Địa chỉ: tổ 4, khu phố 3, thị trấn Vĩnh An, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai.

Địa chỉ: số 8 Phan Chu Trinh, tổ 4, khu phố 3, thị trấn Vĩnh An, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai.

38. Bà Phạm Thị Bút, sinh năm 1958. (vắng mặt) Địa chỉ: tổ 9, khu phố 3, thị trấn Vĩnh An, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai.

39. Bà Nguyễn Thị Ninh, sinh năm 1974. (vắng mặt) Địa chỉ: tổ 5 khu phố 3, thị trấn Vĩnh An, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai.Người đại diện theo ủy quyền ông An, bà Hữu, bà Bút, bà Ninh: Ông Lê Duy Ấn, sinh năm 1967. (Có mặt) Địa chỉ: 1039/40, khu phố 2, phường Tân Hiệp, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

- Người làm chứng:

1. Ông Trần Văn Trang, sinh năm 1959 (có mặt) Địa chỉ: khu phố Miễu, phường Phước Tân, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

2. Bà Lê Thị Minh, sinh năm 1950. (vắng mặt) Địa chỉ: 24 đường 902 Tạ Quang Bửu, phường 5, quận 8, Hồ Chí Minh.

3. Ông Nguyễn Duy Linh, sinh năm 1965 (vắng mặt) Địa chỉ: 120/C9 Tôn Thất Hiệp, phường 13, quận 11, Hồ Chí Minh.

4. Ông Nguyễn Chân Lý, sinh năm 1970 (vắng mặt) Địa chỉ: 5B Phổ Quan, phường 02, quận Tân Bình, Hồ Chí Minh.

5. Ông Nguyễn Xuân Hùng, sinh năm 1969 (vắng mặt) Địa chỉ: 99 Nghĩa Thục, phường 5, quận 5, Hồ Chí Minh.

6. Ông Nguyễn Tấn Thành, sinh năm 1976 (vắng mặt) Địa chỉ: 68/3B Trần Phú, Cái Khế, Ninh Kiều, Cần Thơ.

7. Bà Vũ Thị Tuyết Vân, sinh năm 1960. (Có mặt) Địa chỉ: 170 Nguyễn Khắc Hiệu, khu phố Long Đức II, phường Tam Phước, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

=========================


 NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về quá trình tố tụng đã giải quyết của vụ án:

  • Ngày 27/10/2009, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đồng Nai nhận được đơn tố cáo của bà Trần Thị Hải Yến, sinh năm 1954, trú tại số 184/49B Khu phố 4, phường Tân Tiến, thành phố Biên Hoà, tỉnh Đồng Nai tố cáo Nguyễn Văn Tình, sinh năm 1962, trú tại: Số 2, đường số 7, Khu phố 1, phường Thảo Điền, Quận 2 (nay là thành phố Thủ Đức), thành phố Hồ Chí Minh có hành vi Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và Lừa đảo chiếm đoạt tài sản của gia đình bà với số tiền 130 tỷ đồng, 02 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất diện tích 14.259m2 nằm trong dự án khu dân cư Tam Phước xã Tam Phước, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai.
  • Ngày 01/01/2010, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đồng Nai (PC15) ra quyết định phân công xác minh nội dung tố cáo số 01/CQCSĐT-PC15, tiến hành xác minh đơn tố cáo của bà Trần Thị Hải Yến.
  • Sau khi tiến hành xác minh, thu thập tài liệu chứng cứ xác định hành vi của Nguyễn Văn Tình và vợ là Nguyễn Thị Chí Sương có dấu hiệu của tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, ngày 16/4/2010, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đồng Nai ra quyết định khởi tố vụ án hình sự số 05/QĐ-PC46(Đ6) để tiến hành điều tra. Ngày 12/7/2010, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đồng Nai ra các quyết định khởi tố bị can số 16/QĐ-PC46 đối với Nguyễn Văn Tình và số 17/QĐ-PC46 đối với Nguyễn Thị Chí Sương, đồng thời ra Lệnh bắt bị can đối Nguyễn Văn Tình về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” để phục vụ công tác điều tra, xử lý. Ngày 21/10/2010, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai phê chuẩn Quyết định khởi tố bị can số 16, 17/QĐ-PC46; ngày 04/11/2010, phê chuẩn Lệnh bắt bị can để tạm giam đối với Nguyễn Văn Tình; bị can Nguyễn Thị Chí Sương bị áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú, đến ngày 17/01/2011 bị áp dụng Lệnh bắt bị can để tạm giam.
  • Ngày 24/01/2011, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đồng Nai ra Quyết định bổ sung Quyết định khởi tố bị can số 01 và số 02/QĐ-PC46 (Đ6), đối với Nguyễn Văn Tình, Nguyễn Thị Chí Sương về hành vi “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và đã được Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai phê chuẩn các Quyết định trên.
  • Ngày 12/4/2011, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đồng Nai có Bản kết luận điều tra số 04/KL-PC46(Đ6) đề nghị truy tố Nguyễn Văn Tình và Nguyễn Thị Chí Sương về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” và tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
  • Ngày 09/6/2011, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai có Cáo trạng số 921/VKS-P1 truy tố Tình và Sương về các tội: Lừa đảo chiếm đoạt tài sản và Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo điểm a khoản 4 Điều 139 và Điều 140, Bộ luật Hình sự.
  • Ngày 20/11/2011, Tình, Sương đã viết đơn tự nguyện bàn giao tài sản cho ông Lê Đình Tài để khắc phục một phần hậu quả. Ngày 28/12/2011, Sương được trích xuất ra khỏi Trại tạm giam để ký biên bản bàn giao tài sản cho ông Lê Đình Tài gồm: thửa đất 180, 236, 237, 707, 286 và 01 căn nhà cùng các hạng mục công trình hạ tầng đầu tư xây dựng trên các thửa đất với thỏa thuận là 20 tỷ đồng cấn trừ vào số tiền mà Tình, Sương phải trả cho ông Tài, bà Yến, trong khi các thửa đất trên đã được phân lô, bán nền cho các bị hại khác.
  • Ngày 09/11/2012, Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai có Bản án hình sự sơ thẩm số 111/2012/HSST, tuyên phạt Nguyễn Văn Tình 15 năm tù về tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và 12 năm tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tổng hợp hình phạt 27 năm tù; tuyên phạt Nguyễn Thị Chí Sương 5 năm tù về tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và 10 năm tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tổng hợp hình phạt 15 năm tùchấp nhận việc Tình, Sương bàn giao đất cho ông Tài để giảm bớt trách nhiệm dân sự.
  • Nguyễn Văn Tình và Nguyễn Thị Chí Sương kháng cáo kêu oan nên ngày 08/5/2013, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm theo Bản án hình sự phúc thẩm số 523/2013/HSPT, tuyên hủy án sơ thẩm để điều tra lại và đề nghị làm rõ trách nhiệm của những người liên quan; Tình, Sương chiếm đoạt toàn bộ hay một phần trong việc ký hợp đồng góp vốn hoặc trách nhiệm dân sự của pháp nhân là Công ty Sài Gòn Cây Cảnh hay không? Vấn đề này cũng chưa điều tra làm rõ và cấp sơ thẩm không đưa Công ty cổ phần Sài Gòn Cây Cảnh tham gia tố tụng với tư cách bị đơn dân sự trong vụ án; làm rõ các tài sản thế chấp cho Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam Chi nhánh Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh có hợp pháp không, tài sản này có trùng lắp với tài sản bị cáo dùng cam kết vay vốn của ông Tài, bà Yến không; Toà sơ thẩm chưa đưa Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam Chi nhánh Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh tham gia tố tụng là bỏ sót người tham gia tố tụng và như vậy là chưa thể xem xét, giải quyết vụ án một cách khách quan.
  • Ngày 04/6/2013, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai ra Quyết định trả hồ sơ điều tra lại số 828/VKS-P1, yêu cầu Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đồng Nai giải quyết các nội dung yêu cầu của của Bản án số 523/2013/HSPT.
  • Ngày 24/7/2013, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đồng Nai ra Quyết định khởi tố bị can đối với Đặng Đức Trung về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, quy định tại Điều 139 Bộ luật Hình sự. Sau khi xác định Trung bỏ trốn khỏi nơi cư trú, ngày 10/10/2013 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đồng Nai đã ra Quyết định truy nã số 02/QĐ; ngày 16/01/2014 ra Quyết định tạm đình chỉ điều tra bị can số 08/QĐ-PC46(Đ6) đối với Đặng Đức Trung.
  • Ngày 10/01/2014Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đồng Nai đã ra các Quyết định khởi tố bị can đối với Phạm Trí Đức, Đặng Trọng NhânVõ Hoàng Yến, Đinh Quốc Lực và Trần Đức Phương về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Ngày 21/01/2014, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai đã ra các quyết định hủy bỏ các Quyết định khởi tố bị can đối với Yến, Lực, Phương, Đức vì cho rằng các đối tượng này có thu lợi (tiền hoa hồng) từ số tiền nộp của khách hàng là những bị hại trong vụ án, tuy nhiên qua các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thì không có căn cứ xác định các đối tượng này biết được số tiền mà Công ty Hoàng Linh, Nam Tiến huy động của khách hàng chuyển về cho Công ty Sài Gòn Cây Cảnh theo hợp đồng đã bị Tình, Sương chiếm đoạt mà không đầu tư vào dự án khu dân cư Tam Phước hoặc không có căn cứ xác định họ đã cấu kết, thông đồng với Nguyễn Văn Tình, Nguyễn Thị Chí Sương dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tiền của khách hàng; do đó, về ý thức thì Lực, Yến, Phương, Đức không gian dối để chiếm đoạt tiền của khách hàng, nên không là đồng phạm với Nguyễn Văn Tình, Nguyễn Thị Chí Sương trong vụ án; trách nhiệm của Lực, Yến, Phương, Đức trong vụ án này chỉ là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan hoặc là bị đơn dân sự có nghĩa vụ phải bồi thường lại số tiền hoa hồng đã được hưởng cho những người bị hại.
  • Ngày 16/01/2014, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đồng Nai có Bản kết luận điều tra vụ án số 01/KLĐT-PC46(Đ6) đề nghị truy tố các bị can Nguyễn Văn Tình, Nguyễn Thị Chí Sương về tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và Lừa đảo chiếm đoạt tài sản và chuyển hồ sơ đến Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai.
    • Trong giai đoạn truy tố, ngày 23/01/2014 Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai đã ra Quyết định phê chuẩn Quyết định khởi tố bị can số 35/QĐ-PC46(Đ6) và Phê chuẩn Lệnh bắt bị can để tạm giam đối với Đặng Trọng Nhân. Ngày 24/01/2014, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai có Quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung số 147/VKS-P1, yêu cầu điều tra làm rõ hành vi của Đặng Trọng Nhân là đồng phạm giúp sức cho Nguyễn Văn Tình trong vụ án Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
  • Ngày 05/3/2014, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đồng Nai ra quyết định tách vụ án trên thành 2 vụ án: Vụ án Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản gồm có bị can Nguyễn Văn Tình, Nguyễn Thị Chí Sương và vụ án Lừa đảo chiếm đoạt tài sản gồm có các bị can Nguyễn Văn Tình, Nguyễn Thị Chí Sương, Đặng Đức Trung, Đặng Trọng Nhân và kết luận vụ án Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài đề nghị truy tố, xét xử trước; còn vụ án Lừa đảo chiếm đoạt tài sản giải quyết sau.

[1.1] Đối với tội danh Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản:

  • Ngày 05/3/2014, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đồng Nai có Bản kết luận điều tra vụ án số 02/KLĐT-PC46(Đ6) đề nghị truy tố Nguyễn Văn Tình, Nguyễn Thị Chí Sương về tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
  • Ngày 13/5/2014, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai ban hành Cáo trạng số 50/VKS-P1 truy tố Tình và Sương tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo điểm a khoản 4 Điều 140 Bộ luật Hình sự năm 1999.
  • Ngày 25/9/2014, Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm, tuyên Nguyễn Văn Tình 18 năm tù, Nguyễn Thị Chí Sương 14 năm tù, chấp nhận việc Tình, Sương bàn giao đất cho ông Tài để giảm bớt trách nhiệm dân sự theo Bản án sơ thẩm số 108/2014/HSST.
  • Bị cáo Nguyễn Văn Tình, Nguyễn Thị Chí Sương kháng cáo kêu oan nên ngày 21/5/2015, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm (Bản án hình sự phúc thẩm số 274/2015/HSPT) không chấp nhận kháng cáo kêu oan, tuyên y án sơ thẩm đối với Tình, Sương; huỷ công nhận việc Tình, Sương bàn giao tài sản cho ông Tài để cấn trừ tài sản, kê biên toàn bộ tài sản để đảm bảo việc thi hành án.
    • Cục Thi hành án dân sự tỉnh Đồng Nai đã tổ chức cưỡng chế kê biên các tài sản trên và tổ chức bán đấu giá với tổng số tiền 13.663.000.000đ, ông Lê Đình Tài là người đã trúng đấu giá, mua lại toàn bộ số tài sản và được trả lại toàn bộ số tiền trên (ông Tài, bà Yến là người được thi hành án). Sau đó, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đồng Nai đã ra quyết định hủy 05 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất các thửa đất số 180, 236, 237, 286, 707 tờ bản đồ số 3, xã Tam Phước, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai mang tên Tình, Sương mà không yêu cầu Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam Chi nhánh Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh bàn giao 05 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất này vì cho rằng khi vay tiền tại Ngân hàng các hợp đồng không đăng ký giao dịch đảm bảo và không thực hiện thủ tục công chứng theo quy định nên các hợp đồng thế chấp tài sản để vay nợ tại ngân hàng là vô hiệu. 
    • Ông Tài đã được Văn phòng đăng ký đất đai Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đồng Nai cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mới, đổi thửa số 180 thành thửa số 11, 12; thửa số 236 thành thửa số 13; thửa số 237 thành thửa số 14; thửa số 286 thành thửa số 40; thửa số 707 thành thửa số 41 tờ bản đồ số 6, xã Tam Phước, thành phố Biên Hoà, tỉnh Đồng Nai. Đến ngày 22/01/2018, vợ chồng ông Lê Đình Tài đã công chứng, làm thủ tục chuyển nhượng cho 04 người khác là anh em họ hàng với ông Tài đều trú tại thị trấn Vĩnh An, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai.
  • Quyết định kháng nghị Giám đốc thẩm số 17/QĐ-VKSTC-V7 ngày 26/12/2019 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị Bản án sơ thẩm số 108/2014/HSST ngày 25/9/2014 của Toà án nhân dân tỉnh Đồng Nai và Bản án hình sự phúc thẩm số 274/2015/HSPT 21/5/2015 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh: 
    • Đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử theo thủ tục Giám đốc thẩm, huỷ toàn bộ Bản án hình sự sơ thẩm số 108/2014/HSST ngày 25/9/2014 của Toà án nhân dân tỉnh Đồng Nai và Bản án hình sự phúc thẩm số 274/2015/HSPT 21/5/2015 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đã xét xử Nguyễn Văn Tình, Nguyễn Thị Chí Sương về tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản để điều tra lại, làm rõ số tiền chiếm đoạt của các bị hại, xác định đúng tội danh của các bị cáo, đồng thời khắc phục những thiếu sót, vi phạm nghiệm trọng thủ tục tố tụng, đảm bảo việc giải quyết vụ án khách quan, toàn diện, có căn cứ và đúng quy định của pháp luật.
  • Ngày 22/4/2021, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có Quyết định Giám đốc thẩm số 20/2021/HS-GĐT, hủy Bản án hình sự sơ thẩm số 108/2014/HSST ngày 25/9/2014 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai và Bản án hình sự phúc thẩm số 274/2015/HS-PT ngày 21/5/2015 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh để điều tra lại với các nội dung: 
    • Hành vi của Nguyễn Văn Tình, Nguyễn Thị Chí Sương có dấu hiệu của tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Các tài liệu có trong hồ sơ không đủ căn cứ xác định hành vi của Nguyễn Văn Tình, Nguyễn Thị Chí Sương có các dấu hiệu đặc trưng của tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Cần phải điều tra, làm rõ thời điểm hình thành ý thức gian dối của Nguyễn Văn Tình, Nguyễn Thị Chí Sương cũng như các dấu hiệu đặc trưng của tội phạm. Trên cơ sở đó, có căn cứ xác định đúng tội danh của Nguyễn Văn Tình, Nguyễn Thị Chí Sương. Chưa chứng minh rõ thời gian, địa điểm, hình thức và số tiền cụ thể đã giao nhận giữa hai bị cáo và ông Lê Đình Tài, bà Trần Thị Hải Yến sau khi ký các giấy vay tiền; không có chứng cứ, tài liệu chứng minh việc giao, nhận tiền; trong 05 giấy vay tiền cũng không phản ánh cụ thể về nội dung này
    • Chưa điều tra thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ xác định chi phí Công ty Sài Gòn Cây cảnh đã đầu tư thực tế vào dự án Khu dân cư Tam Phước; đồng thời, những khoản chi có liên quan đến yếu tố nước ngoài cần điều tra thông qua hoạt động tương trợ tư pháp hình sự nhưng chưa có kết quả xác minh. Cần làm rõ việc ông Lê Đình Tài chuyển tiền vào tài khoản của Công ty Sài Gòn Cây Cảnh 17.504.500.000 đồng là góp vốn đầu tư hay là tiền vợ chồng Nguyễn Văn Tình, Nguyễn Thị Chí Sương vay của vợ chồng ông Tài, bà Yến rồi chiếm đoạt. 
    • Chưa làm rõ việc ông Lê Đình Tài nhận 20.000.000.000 đồng của Tình, Sương để lo chi phi cho dự án khu dân cư Tam Phước. Việc tách vụ án để xử lý đã ảnh hưởng trực tiếp đến việc chứng minh toàn diện vụ án, xâm hại quyền, lợi hợp pháp của nhiều bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan khác. Việc không xác định Công ty Sài Gòn Cây Cảnh là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. 
    • Quá trình điều tra, truy tố, xét xử, các cơ quan tiến hành tố tụng chưa điều tra làm rõ thủ đoạn gian dối để xác định hành vi phạm tội của Nguyễn Văn Tình, Nguyễn Thị Chí Sương, chưa làm rõ số tiền các bị cáo chiếm đoạt của vợ chồng ông Tài, bà Yến để xác định trách nhiệm hình sự, trách nhiệm dân sự.
    • Việc xử lý tài sản 10,2ha đất của Nguyễn Văn Tình và Nguyễn Thị Chí Sương cho ông Lê Đình Tài, bà Trần Thị Hải Yến (chỉ là một trong số nhiều bị hại) đã làm cho việc giải quyết vụ án không toàn diện, không công bằng và triệt để, cần phải khắc phục để bảo đảm giải quyết vụ án đúng quy định của pháp luật. 
  • Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao kiến nghị Cục Thi hành án dân sự tỉnh Đồng Nai hủy kết quả bán đấu giá tài sản theo Quyết định thi hành án số 75/QĐ-CTHA ngày 25/6/2015 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Đồng Nai và tiếp tục kê biên 10,2 ha đất để bảo đảm việc thi hành án.

[1.2] Đối với tội danh Lừa đảo chiếm đoạt tài sản:

  • Ngày 21/3/2014, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đồng Nai có Bản kết luận điều tra số 03/KLĐT-PC46(Đ6) đề nghị truy tố Nguyễn Văn Tình, Nguyễn Thị Chí Sương, Đặng Đức Trung, Đặng Trọng Nhân về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo khoản 4, Điều 139 Bộ luật Hình sự.
  • Ngày 22/7/2014, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai có Cáo trạng số 87/VKS-P1 và chuyển hồ sơ đến Toà án nhân dân tỉnh Đồng Nai để xét xử theo quy định của pháp luật. - Ngày 22/12/2014, Toà án nhân dân tỉnh Đồng Nai có Quyết định số 01/2014-QĐ-TA chuyển vụ án Nguyễn Văn Tình và đồng phạm phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản đến Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh để xét xử theo thẩm quyền.
  • Ngày 27/11/2015, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh nhận hồ sơ điều tra bổ sung số 1381/2015 của Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
  • Ngày 11/3/2016, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh có Quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung số 38/QĐ-THSĐTB-P3 đến Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai và Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai nhận hồ sơ.
  • Ngày 28/3/2016, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai có Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung số 317/QĐ-VKS-P3 đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đồng Nai.
  • Ngày 26/5/2016, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đồng Nai có Kết luận điều tra bổ sung vụ án số 66/KLĐT-PC46(Đ6). 
  • Ngày 31/5/2016, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai có Quyết định số 693/VKS-P1 chuyển vụ án đến Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
  • Ngày 07/9/2016, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh có Quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung số 154/QĐ-THSĐTBS-P3 lần 2 đến Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai.
  • Ngày 30/9/2016, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh có Quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung số 962/QĐ-THSĐTBS-P3 đề nghị Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai điều tra bổ sung một số nội dung. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai đã có quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung đề nghị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đồng Nai điều tra bổ sung.
  • Ngày 16/11/2016, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đồng Nai có Kết luận điều tra bổ sung số 115/KLĐT-CQĐT(PC46).
  • Ngày 18/11/2016, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai có Công văn phúc đáp số 1562/VKS-P3 gửi Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về việc thể hiện quan điểm điều tra bổ sung vụ án.
  • Ngày 22/11/2016, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tiếp tục có quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung, nhưng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai không nhận.
  • Ngày 30/12/2016, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh có Quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung số 11/QĐ-VKS-P3 yêu cầu Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai làm rõ một số nội dung nhưng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai không nhận.
  • Ngày 14/12/2017, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh có Quyết định chuyển vụ án hình sự đề nghị truy tố theo thẩm quyền số 01/QĐ-CVA-P3, chuyển hồ sơ vụ án đến Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai để truy tố theo thẩm quyền.
  • Ngày 29/01/2018, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai nhận hồ sơ.
  • Ngày 28/3/2018, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai có Cáo trạng số 275/CT-VKS-P3.
  • Ngày 26/4/2018, Toà án nhân dân tỉnh Đồng Nai nhận hồ sơ vụ án.
  • Ngày 05/7/2018, Toà án nhân dân tỉnh Đồng Nai ra Quyết định trả hồ sơ vụ án số 12/2018/HSST-QĐ để điều tra bổ sung.
  • Ngày 17/7/2018, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai ra Quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung số 679/QĐ-VKS-P3.
  • Ngày 01/8/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đồng Nai có Công văn số 2433/CQĐT-PC46 phúc đáp quan điểm quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung lần 4 và không nhận hồ sơ.
  • Ngày 26/11/2018 Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai chuyển hồ sơ vụ án đến Toà án nhân dân tỉnh Đồng Nai để xét xử, truy tố bị can Nguyễn Văn Tình, Nguyễn Thị Chí Sương, Đặng Trọng Nhân về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
  • Ngày 26/8/2019, Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm, tuyên Nguyễn Văn Tình 18 năm tù, Nguyễn Thị Chí Sương 14 năm tù, Đặng Trọng Nhân 04 năm tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Bản án sơ thẩm số 49/2019/HSST.
  • Ngày 26/12/2019, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành Quyết định kháng nghị Giám đốc thẩm số 17/QĐ-VKSTC-V7 đối với Bản án hình sự sơ thẩm và phúc thẩm (số 108/2014/HSST ngày 25/9/2014 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai và Bản án hình sự phúc thẩm số 274/2015/HS-PT ngày 21/5/2015 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh). Sau khi kháng nghị Giám đốc thẩm, ngày 02/01/2020, Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Vụ 7) có Công văn số 10/VKSTC-V7 kiến nghị Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm hủy Bản án sơ thẩm số 49/HSST ngày 26/8/2019 của Toà án nhân dân tỉnh Đồng Nai xử Nguyễn Văn Tình và Nguyễn Thị Chí Sương tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản liên quan đến việc rao bán đất nền tại dự án khu dân cư Tam Phước cho hơn 200 bị hại khác.
  • Ngày 06/01/2022, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh ra Bản án hình sự phúc thẩm số 11/2022/HS-PT, tuyên hủy Bản án hình sự sơ thẩm số 49/2019/HSST, giao hồ sơ cho Viện kiểm sát nhân dân tối cao để điều tra lại vụ án theo thủ tục chung với các nhận định sau: Nguyễn Văn Tình và Nguyễn Thị Chí Sương đã sử dụng tài sản là 10,2ha đất tại dự án khu dân cư Tam Phước để giao dịch thế chấp, bán cho 3 nhóm chủ thể khác nhau gồm: Thế chấp cho Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam Chi nhánh Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh để vay tiền từ tháng 11/2006 đến tháng 11/2009; thế chấp cho vợ chồng ông Lê Đình Tài và bà Trần Thị Hải Yến vay tiền từ tháng 11/2007 đến tháng 8/2009; bán đất cho nhiều người dưới hình thức hợp đồng góp vốn từ tháng 12/2006 đến tháng 01/2011; do đó, các cơ quan tố tụng cấp sơ thẩm đã tách, xét xử từng nhóm bị hại riêng; dẫn đến giải quyết vụ án không khách quan, không đúng pháp luật, xâm hại đến quyền lợi hợp pháp của rất nhiều bị hại khi xử lý 10,2ha đất của Nguyễn Văn Tình, Nguyễn Thị Chí Sương. Tòa án cấp sơ thẩm không đưa Công ty Sài Gòn Cây Cảnh vào tham gia tố tụng là vi phạm nghiêm trọng tố tụng. Tại phiên tòa phúc thẩm có 5 người đã làm đơn đề nghị được tham gia tố tụng và cung cấp tài liệu chứng minh họ bị thiệt hại do hành vi phạm tội các bị cáo gây ra, cần phải điều tra làm rõ, để đảm bảo quyền lợi của họ trong vụ án này. Trong vụ án này còn có Đặng Đức Trung (đang bị truy nã) và một số đối tượng khác giúp sức cho Nguyễn Văn Tình và Nguyễn Thị Chí Sương nhưng cấp sơ thẩm cũng chưa điều tra làm rõ, nếu có căn cứ thì phải xử lý theo quy định pháp luật.
  • Ngày 19/4/2022, Vụ 2 nhận được hồ sơ vụ án Nguyễn Văn Tình cùng đồng phạm Lừa đảo chiếm đoạt tài sản do Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh chuyển đến (theo đường công văn). Ngày 26/4/2022 đã ra quyết định trả hồ sơ cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an (CSHS) để điều tra lại.
  • Ngày 09/5/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an ra Quyết định nhập vụ án hình sự số 02/QĐ-CSHS-P8 nhập vụ án hình sự Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và Lừa đảo chiếm đoạt tài sản thành một vụ án Nguyễn Văn Tình và đồng phạm phạm tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và Lừa đảo chiếm đoạt tài sản xảy ra tại thành phố Biên Hoà, tỉnh Đồng Nai.
  • Ngày 17/11/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an ra Quyết định thay đổi Quyết định khởi tố vụ án số 06/QĐ-CSHS-P8 thay đổi vụ án hình sự Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và Lừa đảo chiếm đoạt tài sản thành vụ án Lừa đảo chiếm đoạt tài sản xảy ra tại Đồng Nai, Thành phố Hồ Chí Minh và một số địa phương.
  • Ngày 17/11/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an ra Quyết định khởi tố bị can đối với Đinh Quốc Lực, Võ Hoàng Yến, Trần Đức Phương, cùng ngày được Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Vụ 2) phê chuẩn.
  • Ngày 18/11/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an tiến hành bắt bị can để tạm giam đối với Đinh Quốc Lực, Võ Hoàng Yến. Đối với Trần Đức Phương, đã phối hợp với chính quyền địa phương thi hành Lệnh bắt bị can để tạm giam nhưng không biết bị can đang ở đâu nên không bắt Phương để tạm giam được và Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an đã ra Quyết định truy nã đối với Trần Đức Phương, tập trung truy bắt để xử lý theo quy định của pháp luật.
  • Ngày 24/11/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an ra Quyết định tách vụ án hình sự đối với hành vi Lừa đảo chiếm đoạt tài sản của Trần Đức Phương và Đặng Đức Trung.

 [2] Về tố tụng:

[2.1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: 

  • Các cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện đầy đủ, đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều và tại phiên tòa, các bị cáo, luật sư và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2.2] Về xác định tư cách tố tụng và thẩm quyền giải quyết vụ án:

  • Trước phiên Tòa, Tòa án nhận được văn bản của Luật sư Lê Quang Y và Luật sư Vũ Duy Nam thông báo bị cáo Tình và Sương từ chối Luật sư bào chữa chỉ định. Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Văn Tình và Nguyễn Thị Chí Sương xác định không đồng ý Luật sư do Tòa án đề nghị Đoàn Luật sư tỉnh Đồng Nai chỉ định vì có Luật sư của bị cáo và gia đình bị cáo yêu cầu là Luật sư Trần Việt Cường và Luật sư Trần Hải Đức. Do đó, HĐXX chấp nhận yêu cầu này của bị cáo và bổ sung tư cách người bào chữa cho bị cáo Tình và Sương là luật sư Trần Hải Đức. 
  • Tại phần xét hỏi, bà Lê Thị Minh, sinh năm 1950 có văn bản nộp cho Hội đồng xét xử về việc không yêu cầu Luật sư Trần Hải Đức bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp. Hội đồng xét xử xét đây là sự tự nguyện và quyền của bà Lê Thị Minh nên chấp nhận và chấm dứt tư cách người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà Minh đối với Luật sư Trần Hải Đức
  • Trước phiên tòa, HĐXX nhận được đơn đề nghị giải quyết của một số người bị hại yêu cầu đưa Công ty Sài Gòn cây cảnh vào tham gia tố tụng trong vụ án là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. HĐXX nhận thấy, khi ban hành Quyết định đưa vụ án ra xét xử Tòa án đã xác định tư cách và đưa vào tham gia tố tụng đối với Công ty TNHH Xây dựng - Thương mại - Dịch vụ Sài Gòn cây cảnh (sau chuyển thành Công ty Cổ phần Sài Gòn cây cảnh). 
  • Đồng thời, đối với những người Tòa án xác định tư cách người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan khi triệu tập xét xử. Tuy nhiên quá trình xét xử, Hội đồng xét xử xác định lại tư cách tham gia tố tụng là người làm chứng trong đó có bà Lê Thị Minh, sinh năm 1950 và bà Vũ Thị Tuyết Vân, sinh năm 1960. 
  • Đối với ý kiến của Luật sư Cường, Đức cho rằng các bị hại thực hiện việc ký kết hợp đồng và bị chiếm đoạt tài sản xảy ra ở thành phố Hồ Chí Minh nên thẩm quyền điều tra, truy tố, xét xử thuộc về thành phố Hồ Chí Minh, Hội đồng xét xử nhận thấy đối với việc xác định thẩm quyền này quá trình tiến hành tố tụng đã được Cơ quan điều tra Công an tỉnh Đồng Nai và Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai nhiều lần chuyển hồ sơ vụ án đến Cơ quan điều tra Công an thành phố Hồ Chí Minh và Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh để giải quyết theo thẩm quyền nhưng đều bị trả như đã nêu tại mục [2.2]
  • Đồng thời, sau khi Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh ra Bản án hình sự phúc thẩm số 11/2022/HS-PT, tuyên hủy Bản án hình sự sơ thẩm số 49/2019/HSST, giao hồ sơ cho Viện kiểm sát nhân dân tối cao để điều tra lại vụ án theo thủ tục chung đã truy tố đến Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai để đưa vụ án ra xét xử. Do đó, thẩm quyền điều tra, truy tố giai đoạn sau thuộc về Cơ quan cảnh sát điều tra Bộ công an, Viện kiểm sát nhân dân Tối cao và thẩm quyền xét xử thuộc về Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai nên ý kiến của các Luật sư là không có căn cứ để chấp nhận.

[2.3] Về giới hạn xét xử:

  • Quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đồng Nai và Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai xác định vụ án có 405 bị hại, bị chiếm đoạt số tiền tổng cộng 323.689.730.000 đồng. Trong quá trình chuẩn bị xét xử, HĐXX nhận thấy có 04 bị hại gồm bà Trương Thị Vân Anh, bà Nguyễn Ngọc Trang, bà Nguyễn Ngọc Hằng, ông Lê Tuấn Đông số tiền bị chiếm đoạt la 0 đồng, 17 bị hại (trừ bà Trương Thị Hường tại phụ lục 02 ban hành kèm Quyết định đưa vụ án ra xét xử) và bị hại Hà Lệ Phương (ban hành theo phụ lục kèm Cáo trạng) đã được cơ quan điều tra triệu tập nhưng không cung cấp địa chỉ hoặc địa chỉ không rõ ràng, thay đổi chỗ ở. 
  • Sau khi ban hành Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án tiếp tục nhận được đơn yêu cầu đính chính số tiền của các bị hại gồm ông Nguyễn Thanh Long, ông Tường Thiện Nhơn, ông Nguyễn Văn Quý, ông Lê Tuấn Đông, ông Trịnh Xuân Hinh, ông Phạm Tấn Thắng. Tuy nhiên, tại phiên tòa các bị hại này không cung cấp được bản chính Hợp đồng góp vốn và phiếu thu (trừ bị hại bà Trương Thị Hường), riêng đối với bị hại Nguyễn Văn Quý đề nghị bổ sung bà Nguyễn Ngọc Phương Thanh (là con gái ông) vào tham gia tư cách tố tụng là bị hại trong vụ án này, tuy nhiên tại biên bản ghi lời khai ngày 21/10/2022 (BL 4999- 5000) và ngày 13/9/2022 (BL 5004-5007) đều xác định ông Quý đứng tên giùm cho bà Thanh nên HĐXX xác định bổ sung tư cách bị hại đối với bà Trương Thị Hường, sinh năm 1976 và giành quyền khởi kiện bằng vụ án dân sự khác (khi có yêu cầu) đối với 04 bị hại (số tiền chiếm đoạt 0 đồng), bị hại Hà Lệ Phương và các bị hại khác không có thông tin cá nhân đầy đủ đã được cơ quan cảnh sát điều tra triệu tập nhưng không đến làm việc, không cung cấp hợp đồng, phiếu thu hoặc chưa đến cơ quan điều tra làm việc. 
  • Tương tự cũng tại phiên tòa những bị hại trình bày và gửi đơn đính chính số tiền bị thiệt hại chênh lệch so với Kết luận điều tra và Cáo trạng truy tố, số tiền hệ số góc hệ số K đã nộp tại Công ty xây dựng - bất động sản Nam Tiến nhưng không cung cấp được bản chính hợp đồng góp vốn, hợp đồng đặt cọc, phiếu thu để đối chiếu nên Hội đồng xét xử chưa có cơ sở để cập nhật điều chỉnh. Do đó, tách ra để các đương sự tranh chấp bằng vụ án dân sự khác khi có yêu cầu. 
  • Về số tiền chiếm đoạt chênh lệnh do số lượng bị hại lớn và số tiền khi các bị hại nộp có làm tròn số nên dẫn tới có sai sót về mặt toán học nhưng không làm thay đổi tội danh và điều, khoản đã truy tố, các bị cáo cũng không có ý kiến về nội dung này. 
  • Hội đồng xét xử xét thấy, do số lượng bị hại và số tiền chiếm đoạt mà đại diện Viện kiểm sát xác định tại phần luận tội không vượt quá giới hạn truy tố ban đầu, không làm xấu đi tình trạng của các bị cáo cũng như để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bị cáo, bị hại nên Hội đồng xét xử xác định lại các bị cáo đã chiếm đoạt của 406 bị hại với tổng số tiền 322.639.880.000đ (Ba trăm hai mươi hai tỷ sáu trăm ba mươi chín triệu tám trăm tám mươi ngàn đồng)

[3] Về nội dung:

[3.1] Về hành vi của các bị cáo bị truy tố, tội danh và điều luật áp dụng

Theo các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập có tại hồ sơ, đã có đủ cơ sở kết luận: 

  • Cuối năm 2006 Nguyễn Văn Tình và Nguyễn Thị Chí Sương, Giám đốc Công ty TNHH Xây dựng - Thương mại - Dịch vụ Sài Gòn Cây Cảnh (sau chuyển thành Công ty cổ phần Sài Gòn Cây Cảnh) làm hồ sơ xin các cấp có thẩm quyền phê duyệt xây dựng dự án khu dân cư Tam Phước, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai. 
  • Mặc dù chưa được UBND tỉnh Đồng Nai ra quyết định giao đất và cấp giấy chứng nhận đầu tư, giấy phép xây dựng; chưa có đủ điều kiện pháp lý theo quy định của Luật Đất đai, Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Nhà ở, để phân lô bán nền và không được phép huy động vốn. Nhưng Nguyễn Văn Tình và Nguyễn Thị Chí Sương cùng các đồng phạm Đặng Đức Trung, Đặng Trọng Nhân, Đinh Quốc Lực, Võ Hoàng Yến và Trần Đức Phương đã dùng thủ đoạn lợi dụng tư cách pháp nhân Công ty Sài Gòn Cây Cảnh đưa ra các thông tin quảng cáo, tiếp thị không đúng sự thật để những người bị hại tin tưởng đã cho Tình và Sương vay tiền và thông qua các Công ty bất động sản Hoàng Linh và Công ty xây dựng - bất động sản Nam Tiến đã ký “Hợp đồng góp vốn” sau đó chiếm đoạt tài sản. Từ năm 2006 đến 2010 Tình, Sương và các đồng phạm đã dùng thủ đoạn nêu trên lừa đảo chiếm đoạt của 406 người bị hại chiếm đoạt được tổng số 322.639.880.000 đồng. Cụ thể:
    • Từ ngày 27/11/2006 đến 09/8/2010 các bị cáo Tình, Sương đã 08 lần sử dụng 05 thửa đất số 236, 237, 286, 180, 707 tờ bản đồ số 3, xã Tam Phước, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai để thế chấp cho Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam Chi nhánh Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh vay và đảm bảo cho người khác đứng tên vay hộ tổng cộng 36,05 tỷ đồng nhưng vẫn thế chấp cho vợ chồng ông Lê Đình Tài và bà Trần Thị Hải Yến để vay với số tiền 30.260.000.000đ (ngày 18/11/2007 vay 8.000.000.000đ, ngày 02/01/2009 vay 13.560.000.000đ, ngày 02/8/2009 vay 8.700.000.000đ) để chiếm đoạt số tiền trên. Trên 03 giấy vay này đều ghi tài sản thế chấp là toàn bộ nhà cửa, đất đai và dự án khu dân cư Tam Phước.
    • Nguyễn Văn Tình và Nguyễn Thị Chí Sương có hành vi từ tháng 12/2006 đến tháng 12/2010 đã cùng đồng phạm dùng thủ đoạn gian dối, đưa ra thông tin sai sự thật về dự án khu dân cư Tam Phước, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai, ký hợp đồng góp vốn với 405 bị hại chiếm đoạt được 292.379.880.000 đồng;
    • Đinh Quốc Lực và Võ Hoàng Yến có hành vi giúp sức Nguyễn Văn Tình và Nguyễn Thị Chí Sương dùng thủ đoạn gian dối, thông tin sai sự thật về dự án khu dân cư Tam Phước, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai, ký hợp đồng góp vốn, thỏa thuận đặt cọc bán 231 nền đất dự án khu dân cư Tam Phước với 198 bị hại chiếm đoạt được tổng số tiền là 57.537.030.000 đồng. Đinh Quốc Lực hưởng lợi 6.539.160.000 đồngVõ Hoàng Yến hưởng lợi 1.384.920.000 đồng.
    • Đặng Trọng Nhân có hành vi trực tiếp đến Công ty Nam Tiến đối chiếu danh sách khách hàng, tiền hoa hồng và ký nhận tiền của Công ty Nam Tiến về giao cho Nguyễn Văn Tình, Nguyễn Thị Chí Sương, Đặng Đức Trung, rồi chuyển hợp đồng, phiếu thu tổng số tiền 27.773.018.000 đồng của Công ty Sài Gòn cây cảnh cho Công ty Nam Tiến để trả cho bị hại, được hưởng lợi 466.458.000 đồng.

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 2 Nghị Quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội, hành vi nêu trên của các bị cáo Nguyễn Văn Tình, Nguyễn Thị Chí Sương, Đinh Quốc Lực, Võ Hoàng Yến và Đặng Trọng Nhân đã phạm vào tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” được quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 BLHS 2015 như Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3.2] Đánh giá về tính chất, mức độ, hành vi của các bị cáo:

  • Công ty Sài Gòn Cây Cảnh chỉ mới được Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai chấp thuận địa điểm cho phép xây dựng dự án khu dân cư Tam Phước theo văn bản 5762 ngày 26/7/2007 và phê duyệt hồ sơ quy hoạch chi tiết tỷ lệ 1/500. Chưa có quyết định thu hồi đất, giao đất, giấy phép đầu tư xây dựng của cơ quan có thẩm quyền, chưa thực hiện việc giải tỏa, đền bù. 
  • Nhưng ngày 20/02/2008 bị cáo Nguyễn Văn Tình đã ký hợp đồng với Công ty cổ phần và phát triển bất động sản Hoàng Linh làm đại lý độc quyền bán nền đất dự án khu dân cư Tam Phước. Nên ngày 06/8/2008 các Sở, ban, ngành liên quan của tỉnh Đồng Nai đã tổ chức họp theo báo cáo kết quả cuộc họp số 423/BC-SKHĐT đã kết luận Công ty Sài Gòn Cây Cảnh tự phân lô bán nền khi chưa đủ điều kiện pháp lý, chưa có đủ thủ tục đầu tư theo quy định luật đất đai, Luật kinh doanh bất động sản, Luật Nhà ở... Công ty Sài Gòn Cây Cảnh không được phép huy động vốn bằng hình thức Hợp đồng góp vốn đầu tư. Tuy nhiên, Công ty Sài Gòn Cây Cảnh đã biết có Kết luận nhưng các bị cáo Tình và Sương vẫn tiếp tục thực hiện và nhận tiền của rất nhiều người người bị hại. 
  • Trong tổng diện tích dự án khu dân cư Tam Phước 157 ha có 10,2 ha đất các bị cáo Tình và Sương được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hợp pháp nhưng toàn bộ diện tích 10,2ha đất các bị cáo Tình và Sương đã thế chấp cho Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam - chi nhánh Quận 1 để vay vốn năm 2008. 
  • Tại thời điểm bị bắt vẫn còn nợ Ngân hàng hơn 12 tỷ đồng nhưng ngày 15/5/2008 các bị cáo Tình và Sương đã thông qua Công ty môi giới ký hợp đồng góp vốn với nhiều người. Hành vi phạm tội của các bị cáo gây ra là đặc biệt nghiêm trọngchiếm đoạt số lượng tài sản lớn, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình trật tự trị an tại địa phương, gây thiệt hại tài sản cho rất nhiều người đến nay chưa thu hồi hoàn trả lại tiền cho bị hại được. Do đó, cần xử phạt các bị cáo mức hình phạt thật nghiêm nhằm cải tạo, giáo dục các bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung.

[3.3] Về trách nhiệm hành vi của từng bị cáo gây ra trong vụ án này:

Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Văn Tình và Nguyễn Thị Chí Sương không thừa nhận hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của ông Lê Đình Tài và bà Trần Thị Hải Yến. Chỉ thừa nhận hành vi phạm tội đối với hơn 400 bị hại. Tuy nhiên căn cứ vào các tài liệu chứng cứ đã thu thập ltrong hồ sơ vụ án thể hiện:

  • Nguyễn Văn Tình và Nguyễn Thị Chí Sương có hành vi từ tháng 12/2006 đến tháng 12/2010 đã cùng đồng phạm dùng thủ đoạn gian dối, đưa ra thông tin sai sự thật về dự án khu dân cư Tam Phước, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai, ký hợp đồng góp vốn với hơn 405 bị hại chiếm đoạt được 292.379.880.000 đồng (tính đến thời điểm xét xử vụ án ngày 18/12/2023) ; 
    • từ ngày 18/11/2007 đến ngày 02/8/2009, Nguyễn Văn Tình và Nguyễn Thị Chí Sương đã dùng thủ đoạn thế chấp các giấy chứng nhận quyền sử dụng 05 thửa đất đã thế chấp cho Ngân hàng trước đó để ký thế chấp cho vợ chồng ông Lê Đình Tài, bà Trần Thị Hải Yến chiếm đoạt được 30.260.000.000 đồng. Như vậy, bị cáo Tình, Sương đã có hành vi gian dối trong quá trình vay tiền của ông Tài, bà Yến khi dùng chính các thửa đất đang thế chấp ngân hàng và đang bán cho những người bị khác. Do đó, hành vi của các bị cáo Tình, Sương đủ cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” đối với bị hại là ông Lê Đình Tài, bà Trần Thị Hải Yến.  Quá trình điều tra, các bị cáo Tình, Sương khai về số tiền vay của vợ chồng ông Tài, bà Yến đã sử dụng vào đầu tư Dự án khu dân cư Tam Phước và mua cho ông Tài 02 xe ô tô (01 xe nhãn hiệu Lexus, 01 xe nhãn hiệu Bentley Flying Spur) cho ông Tài hết 12 tỷ đồng. Tuy nhiên, căn cứ vào hợp đồng mua xe số 06-T4 ngày 22/4/2008 thể hiện bên bán là Công ty TNHH Kim Thái Anh, do ông Nguyễn Xuân Hùng, Giám đốc - đại diện, bên mua là Công ty TNHH Thương mại và Dịch vụ Hà Linh do bà Võ Thị Hoàng Hà - Giám đốc, làm đại diện; toàn bộ hồ sơ hợp đồng mua bán, các chứng từ, hoá đơn giá trị gia tăng, tờ khai lệ phí trước bạ, giấy nộp tiền trước bạ và giấy đăng ký xe đều thể hiện người mua và trả tiền cho 02 chiếc xe là Công ty TNHH Thượng mại và Dịch vụ Hà Linh. Đối với chiếc xe Bentley, ông Nguyễn Xuân Hùng – Giám đốc Công ty TNHH Kim Thái Anh khai đã bán và xuất hóa đơn cho Công ty Hà Linh với số tiền 6.242.500.000đ. Xe ô tô nhãn hiệu Lexus, ông Nguyễn Duy Linh – Giám đốc Công ty TNHH Thương Mại An Khang khai giá chiếc xe trên là 1.452.000.000đ, ông Linh không nhớ ai là người thanh toán, nhưng hoá đơn xuất cho Công ty TNHH Thương mại và Dịch vụ Hà Linh. Như vậy, giá 02 chiếc xe là 7.694.500.000đ chứ không phải 12 tỷ đồng như vợ chồng bị cáo Tình, Sương khai. Do vậy, lời khai của bị cáo Nguyễn Văn Tình về việc trả tiền mua 02 xe ô tô nói trên cho ông Tài là không có căn cứ. 
    • Về số tiền 9.004.500.000đ: Ngày 19/02/2008, bị cáo Nguyễn Văn Tình chỉ đạo Nguyễn Hữu Thành đến Chi nhánh ngân hàng phát triển nhà Đồng Bằng Sông Cửu Long - Chi nhánh Đồng Nai gặp ông Lê Đình Tài để lấy tiền. Đến ngân hàng, ông Thành được ông Tài đưa số tiền 9.004.500.000đ, ông Thành đã viết giấy nhận tiền với nội dung “Nguyễn Hữu Thành là nhân viên Công ty Sài Gòn Cây Cảnh có nhận số tiền 9.004.500.000đ tại ngân hàng MHB”. Sau khi nhận số tiền trên ông Thành đã giao lại cho các bị cáo Nguyễn Văn Tình và Nguyễn Thị Chí Sương tại số 244 Nguyễn Văn Hưởng, phường Thảo Điền, Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh. Sau đó, ông Thành đã yêu cầu các bị cáo Tình, Sương ghi và ký giấy nhận tiền đề ngày 22/4/2009 với nội dung “có mượn ông Lê Đình Tài số tiền 9.004.500.000đ tại ngân hàng phát triển nhà ĐBSCL. Sau khi ông Tài làm xong thủ tục ký rút tiền, bị cáo Tình và ông Tài bận đi huyện Tân Thành nên nhờ ông Thành nhận dùm và đem về giao lại cho vợ chồng tôi. Mọi việc về sau không liên quan đến ông Thành nữa”. Ông Tài cho rằng, số tiền 9.004.500.000đ là tiền ông Tài cho ông Thành vay để góp vốn đầu tư xây dựng Dự án khu dân cư Tam Phước, chứ không phải cho bị cáo Tình vay. Nội dung này, vợ chồng bị cáo Tình, Sương khai nhận có vay của vợ chồng ông Tài, nhờ ông Nguyễn Hữu Thành nhận hộ, phù hợp với lời khai ông Nguyễn Hữu Thành. Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an đã tiến hành đối chất giữa ông Tài và ông Thành nhưng ông Tài và ông Thành vẫn giữ nguyên lời khai của mình. Căn cứ tài liệu có trong hồ sơ có đủ cơ sở kết luận Nguyễn Hữu Thành nhận số tiền 9.004.500.000đ từ ông Tài tại Ngân hàng phát triển nhà Đồng Bằng Sông Cửu Long - Chi nhánh Đồng Nai và viết giấy nhận tiền; sau khi nhận tiền, ông Thành đã về giao cho vợ chồng bị cáo Tình, Sương.
    • Như đã phân tích trên, Bị cáo Nguyễn Văn Tình là người chủ mưu và thực hiện tích cực hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản nên mức hình phạt của bị cáo Tình là cao nhất. Bị cáo Nguyễn Thị Chí Sương là người đồng phạm, cùng thực hiện và giúp sức tích cực cho bị cáo Tình phạm tội và gây hậu quả lớn cho nhiều người bị hại, Hội đồng xét xử xem xét mức hình phạt tương xứng hành vi của bị cáo Sương nhưng nhẹ so với bị cáo Tình. Do đó, cần buộc bị cáo Tình và Sương phải chịu trách nhiệm chính và cần có mức hình phạt thật nghiêm đối với các bị cáo cũng như cần buộc các bị cáo phải chịu trách nhiệm bồi thường toàn bộ thiệt hại cho bị hại.
  • Đinh Quốc Lực là nhân viên Công ty cổ phần đầu tư và phát triển bất động sản Hoàng Linh (do ông Phan Trung Kỳ làm Giám đốc) đã liên hệ và được Tình cung cấp các văn bản do UBND tỉnh Đồng Nai phê duyệt gồm: Quyết định số 5762/UBND chấp thuận địa điểm; Quyết định số 3561/QĐ-UBND về việc giao nhiệm vụ quy hoạch chi tiết xây dựng tỷ lệ 1/500 Khu dân cư Tam Phước; Quyết định số 4621/QĐ-UBT phê duyệt phương án tổng thể bồi thường, hỗ trợ tái định cư và bản sơ đồ phân lô theo quy hoạch chi tiết xây dựng tỷ lệ 1/500 do Tình tự thuê đơn vị làm dịch vụ lập, 05 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất diện tích 10,2 ha do Tình và Sương đứng tên quyền sử dụng tại Khu dân cư Tam Phước.
    • Đinh Quốc Lực đã bàn bạc với Võ Hoàng Yến - Trưởng Văn phòng đại diện Công ty Hoàng Linh đặt tại 688, Sư Vạn Hạnh, Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh về việc ký hợp đồng môi giới độc quyền dự án khu dân cư Tam Phước với Công ty Sài Gòn Cây Cảnh; Yến đồng ý cùng Lực đến Công ty Sài Gòn Cây Cảnh gặp Tình thỏa thuận sẽ phân phối 350 nền đất tại dự án, thống nhất huy động góp vốn mỗi nền là 100 triệu đồng. 
    • Hành vi của các bị cáo Đinh Quốc Lực và Võ Hoàng Yến giúp sức Nguyễn Văn Tình và Nguyễn Thị Chí Sương dùng thủ đoạn gian dối, thông tin sai sự thật về dự án khu dân cư Tam Phước, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai, ký hợp đồng góp vốn, thỏa thuận đặt cọc bán 231 nền đất dự án khu dân cư Tam Phước với 198 bị hại chiếm đoạt được tổng số tiền là 57.537.030.000 đồng. Đinh Quốc Lực hưởng lợi 6.539.160.000 đồng; Võ Hoàng Yến hưởng lợi 1.384.920.000 đồng. Bị cáo Lực và Yến là người tham gia với vai trò đồng phạm giúp sức tích cực cho bị cáo Tình và Sương chiếm đoạt số tiền lớn của nhiều người bị hại. Do đó cần áp dụng mức hình phạt phù hợp tính chất, mức độ hành vi phạm tội của từng bị cáo nhằm răng đe, giáo dục, phòng ngừa chung. Mức hình phạt của bị cáo Lực và Yến thấp hơn bị cáo Sương nhưng cao hơn bị cáo Nhân.
  • Bị cáo Đặng Trọng Nhân là Phó Giám đốc dự án khu dân cư Tam Phước. Mặc dù biết rõ dự án Khu dân cư Tam Phước chưa hoàn thiện thủ tục pháp lý, Công ty Sài Gòn Cây Cảnh đang bị các cơ quan chức năng tỉnh Đồng Nai yêu cầu dừng ngay việc phân lô bán nền đất dự án, nhưng thông qua Phạm Trí Đức, Đặng Đức Trung với Trần Đức Phương thực hiện dịch vụ môi giới bán các lô đất nền thuộc dự án khu đô thị Tam Phước, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai, thoả thuận Phương kê giá đất lên thêm so với giá gốc của chủ đầu tư và phụ thu của khách hàng loại phí theo vị trí của từng nền đất từ 20 triệu - 120 triệu đồng/nền (gọi là hệ số đường, hệ số góc). Trần Đức Phương được hưởng 3% tổng giá trị hợp đồng góp vốn và 50% tiền “hệ số đường”, “hệ số góc”
    • Tiền phí dịch vụ môi giới 200.000đ/m2 sau khi trừ đi số tiền Phương được hưởng, còn lại Trung, Nhân và Đức được hưởng. Bị cáo Đặng Trọng Nhân có hành vi trực tiếp đến Công ty Nam Tiến đối chiếu danh sách khách hàng, tiền hoa hồng và ký nhận tiền của Công ty Nam Tiến về giao cho Nguyễn Văn Tình, Nguyễn Thị Chí Sương, Đặng Đức Trung, rồi chuyển hợp đồng, phiếu thu tổng số tiền 27.773.018.000 đồng của Công ty Sài Gòn Cây Cảnh cho Công ty Nam Tiến để trả cho bị hại, bị cáo Nhân được hưởng lợi 466.458.000 đồng. Bị cáo Nhân là người tham gia với vai trò đồng phạm giúp sức cho bị cáo Tình và Sương chiếm đoạt tiền của người bị hại. Do đó cần áp dụng mức hình phạt phù hợp tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo nhằm răng đe, giáo dục, phòng ngừa chung.

[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: 

  • Hành vi phạm tội của các bị cáo Nguyễn Văn Tình, Nguyễn Thị Chí Sương, Đinh Quốc Lực, Võ Hoàng Yến và Đặng Trọng Nhân thực hiện nhiều lần nên bị áp dụng tình tiết tăng nặng “Phạm tội 02 lần trở lên” theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS.

- Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: 

Tại phiên tòa các bị cáo Nguyễn Văn Tình và Nguyễn Thị Chí Sương chỉ trả lời các câu hỏi của luật sư của bị cáo đặt ra và giữ quyền im lặng khi Hội đồng xét xử, đại diện Viện kiểm sát và các Luật sư khác đặt câu hỏi. Nên Hội đồng xét xử không áp dụng tình tiết giảm nhẹ thật thà khai báo, ăn năn hối cải theo điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. 

Các bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự cụ thể 

  • chưa có tiền án, tiền sự, 
  • các bị cáo Tình và Sương là vợ chồng, hoàn cảnh gia đình có 03 con. 
  • Các bị cáo Đinh Quốc Lực, Võ Hoàng Yến quá trình điều tra đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự; các bị cáo đồng phạm vai trò giúp sức. Tại phiên tòa còn khai báo quanh co nhưng vẫn thừa nhận hành vi của mình sai trái. 
  • Bị cáo Đặng Trọng Nhân thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, đã nộp lại số tiền hưởng lợi 466.458.000 đồng để trả lại cho người bị hại, hoàn cảnh gia đình khó khăn, bị cáo là lao động chính nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS 2015. Xét đây là những tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015, do bị cáo Nhân có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên Hội đồng xét xử xem xét áp dụng Điều 54 BLHS để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo Nhân, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật đối với người đã biết ăn năn, hối cải.

[5] Về trách nhiệm dân sự và nghĩa vụ bồi thường:

Quá trình điều tra và tại phiên tòa xác định số tiền Nguyễn Văn Tình và đồng phạm chiếm đoạt của các bị hại được tổng số 322.639.880.000 đồng. Do các bị cáo khác có vai trò đồng phạm giúp sức cho bị cáo Tình và Sương chiếm đoạt tài sản của các bị hại, sau đó chuyển giao cho Tình, Sương quản lý sử dụng toàn bộ số tiền nên theo quy định tại Điều 584587589 BLDS 2015 và Mục 8, Phần I Công văn số 212/TANDTC-PC13/9/2019 của Tòa án nhân dân tối cao: “Trong trường hợp nhiều người cùng gây thiệt hại thì những người đó phải liên đới bồi thường cho người bị thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường của từng người cùng gây thiệt hại được xác định tương ứng với mức độ lỗi của mỗi người; nếu không xác định được mức độ lỗi thì họ phải bồi thường thiệt hại theo phần bằng nhau” nên phải chịu trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại cho các bị hại. 

  • Tuy nhiên, qua tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX xét thấy: Tình và Sương chiếm đoạt 30.260.000.000 đồng của ông Lê Đình Tài, bà Trần Thị Hải Yến và chiếm đoạt 292.379.880.000 đồng của 405 người bị hại. Bị cáo Lực chiếm đoạt số tiền 6.539.160.000 đồng, bị cáo Yến chiếm đoạt số tiền 1.384.920.000 đồng và bị cáo Nhân chiếm đoạt số tiền 466.458.000 đồng. Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát đề nghị không buộc các bị cáo đồng phạm phải chịu trách nhiệm liên đới bồi thường cho những người bị hại là có căn cứ chấp nhận. Do đó, cần buộc bị cáo Nguyễn Văn Tình phải liên đới với bị cáo Nguyễn Thị Chí Sương bồi thường toàn bộ số tiền đã chiếm đoạt là 322.639.880.000 đồng cho người bị hại trong vụ án. 
  • Đối với số tiền hoa hồng hoặc hưởng lợi mà các bị cáo Lực, Yến và Nhân đã nhận không đúng nên cần buộc nộp lại số tiền đã nhận để đảm bảo nghĩa vụ bồi thường thiệt hại của bị cáo Nguyễn Văn Tình và Nguyễn Thị Chí Sương cho các bị hại, cụ thể: Bị cáo Lực số tiền 6.539.160.000 đồng, bị cáo Yến số tiền 1.384.920.000 đồng và bị cáo Nhân số tiền 466.458.000 đồng. 
  • Đối với số tiền Trần Đức Phương chiếm đoạt 3.579.047.000 đồng và Đặng Đức Trung chiếm đoạt 2.301.042.000 đồng. Hiện tại Trung và Phương bỏ trốn đang bị truy nã khi nào bắt được xử lý sau. Riêng đối với số tiền hệ số đường, hệ số góc đã chiếm đoạt còn lại là 1.960.000.000 đồng, Trần Đức Phương, Đặng Đức Trung, Đặng Trọng Nhân và Phạm Trí Đức cùng thỏa thuận nên phải có trách nhiệm liên đới bồi thường cho các bị bại. Tuy nhiên do hiện tại Trần Đức Phương, Đặng Đức Trung đang bỏ trốn Cơ quan điều tra đã truy nã, nên buộc bị cáo Đặng Trọng Nhân và ông Phạm Trí Đức liên đới có trách nhiệm bồi thường cho các bị hại (theo phụ lục kèm Bản án) và dành quyền khởi kiện cho bị cáo Đặng Trọng Nhân và ông Phạm Trí Đức đối với Trần Đức Phương, Đặng Đức Trung về số tiền hệ số đường, hệ số góc đã bồi thường cho các bị hại. 
  • Ngoài ra quá trình giải quyết vụ án, Cơ quan CSĐT - Bộ Công an đã đăng tải thông báo tìm bị hại trên các phương tiện thông tin đại chúng. Đến nay đã làm việc và xác định được 405 người bị hại, bị chiếm đoạt 292.379.880.000 đồng bằng thủ đoạn ký hợp đồng góp vốn, để mua bán đất nền dự án khu dân cư Tam Phước của Công ty Sài Gòn Cây Cảnh, hiện các bị hại đều có yêu cầu Nguyễn Văn Tình và đồng phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật. Đối với người bị hại còn lại (nếu có) sau khi xét xử, sẽ được xem xét giải quyết trong vụ án dân sự khác nếu có yêu cầu. Quá trình chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận được yêu cầu của 03 bị hại gồm bị hại Hoàng Trọng Nguyên yêu cầu bồi thường số tiền 289.488.658 đồng; bị hại Nguyễn Thị Thanh Bình yêu cầu bồi thường số tiền 599.626.522 đồng và bị hại Lê Thị Nga yêu cầu bồi thường số tiền 776.815.000 đồng. Các bị hại này ngoài yêu cầu bồi thường lại tiền mua đất đã nộp cho công ty thì còn yêu cầu tính lãi suất, tổn thất tinh thần, tiền đi lại để kiện tụng...Như đã phân tích ở trên, các giao dịch dân sự trên không phải là giao dịch dân sự thông thường mà là dùng thủ đoạn gian dối nhằm để các bị hại tin tưởng và nộp tiền cho các bị cáo để chiếm đoạt. Theo đó, số tiền bị chiếm đoạt được xác định là số tiền các bị hại thực tế nộp cho công ty sau khi đã khấu trừ số tiền đã được nhận (nếu có). Xét thấy các yêu cầu bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của các bị hại nêu trên không có căn cứ, không phù hợp quy định pháp luật nên không chấp nhận. Do đó, Hội đồng xét xử không chấp nhận các yêu cầu bồi thường khác ngoài yêu cầu bồi thường chính số tiền đã bị chiếm đoạt. 

 [6] Về biện pháp tư pháp, xử lý vật chứng, tài sản, tài liệu, đồ vật:

  • Buộc các bị cáo và ông Phạm Trí Đức phải giao nộp lại số tiền đã hưởng lợi để khắc phục hậu quả, bồi thường cho các bị hại, cụ thể:
    • + Buộc ông Phạm Trí Đức phải giao nộp lại số tiền thu lợi bất chính 1.793.152.000 đồng.
    • + Buộc bị cáo Lực phải giao nộp số tiền 6.539.160.000 đồng, bị cáo Yến phải giao nộp số tiền 1.384.920.000 đồng và bị cáo Nhân phải giao nộp số tiền 466.458.000 đồng.
  • Đối với các giấy vay tiền do Nguyễn Văn Tình và Nguyễn Thị Chí Sương ký; các Hợp đồng góp vốn, các phiếu thu tiền... Cơ quan điều tra đã thu giữ, tiếp tục lưu trong hồ sơ vụ án.
  • Hoàn trả cho bị cáo Nguyễn Văn Tình:
    • + 02 (Hai) điện thoại di động: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, Model: 1110i, Type: RH-93, Code: 0536470, số Imei: 358995/01/816548/9, màu đen trắng viền cam, có gắn thẻ sim mobi4U bên trong điện thoại; 01 điện thoại di động hiệu Nokia Corporation, FCC ID: PPIRM-217, IC:661U-RM217, Model 6300, Type RM-217, MADE BY NOKIA 356901/03/533608/9, màu nâu, có gắn thẻ sim Vinaphone bên trong điện thoại.
    • + 01 hộ chiếu số B1362436 mang tên Nguyễn Văn Tình.
  • Hoàn trả cho Công ty TNHH Xây dựng - Thương mại - Dịch vụ Sài Gòn cây cảnh (sau chuyển thành Công ty Cổ phần Sài Gòn cây cảnh):
    • + 7 con dấu (01 con dấu Giám đốc điều hành có tên Đào Hải Hùng; 01 con dấu Giám đốc dự án có tên Nguyễn Hữu Cường; 01 con dấu sao y bản chính; 01 con dấu Giám đốc TH có tên Nguyễn Hữu Phước; 01 con dấu tên Nguyễn Văn Tình; 01 con dấu Chủ tịch Hội đồng quản trị; 01 con dấu Công ty Sài Gòn Cây Cảnh).
  • Tiếp tục tạm giữ và lưu hồ sơ vụ án: 04 (Bốn) đĩa VCD: 01 đĩa có nội dung ghi trên bìa nhãn đĩa “Thời sự Đồng Nai triển khai dự án đô thị mới Tam Phước; HTV7-20/03/2008 – (18h04-18h05); VTV1 – 19/03/2008-(23h02-23h03); VTV1-20/03/2008-(19h13-19h14); 01 đĩa có nội dung ghi trên bìa nhãn đĩa “Lễ ký kết tại TP”; 01 đĩa có nội dung ghi trên bìa nhãn đĩa “Tổng hợp Sgòn C2”; 01 đĩa có nội dung ghi trên bìa nhãn đĩa “Đồng Nai triển khai dự án đô thị mới Tam Phước”.
  • Đối với việc Tình và Sương khai đã sử dụng số tiền trên để trả nợ cá nhântrả tiền thuê địa điểm văn phòng công ty; mua đất đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng dự án khu dân cư Tam Phước khoảng 100 tỷ đồng nhưng không có chứng từ chứng minh; chuyển tiền ra nước ngoài theo hợp đồng cơ cấu nguồn vốn đã ký với Tập đoàn tài chính EVO GLOBAL asset management limited và Công ty GLEEDS AUSLIA.plyltd. 
    • Kết quả xác minh: Nguyễn Văn Tình đã chuyển tiền ra nước ngoài 03 đợt tổng cộng 130.650USD, trong đó, ngày 11/12/2007 chuyển 43.550 USD (tương đương 703.114.750 VNĐ tại thời điểm); ngày 29/02/2008 chuyển 43.550 USD (tương đương 701.416.300 VNĐ tại thời điểm); ngày 27/3/2008 chuyển 43.550 USD (tương đương 700.196.900 VNĐ tại thời điểm) cho Công ty GLEEDS AUSLIA.plyltd, nội dung chuyển trả theo hợp đồng dịch vụ quản lý dự án ký ngày 27/11/2007 với Công ty Sài Gòn Cây Cảnh; ngày 25/02/2008, Nguyễn Văn Tình, Nguyễn Thị Chí Sương chuyển 495.500 USD (tương đương 7.980.523.000 VNĐ) cho Tập đoàn tài chính EVO GLOBAL asset management limited theo hợp đồng cơ cấu vốn ký kết giữa hai bên vào tháng 10/2007; ngày 13/3/2008 chuyển 45.550 USD (tương đương khoảng 734 triệu đồng) cho Công ty Allen Jack and Cottier về phí thiết kế dự án Long Thành; tổng số tiền Tình và Sương đã chuyển ra nước ngoài là 11.602.419.250đ (Mười một tỷ, sáu trăm lẻ hai triệu, bốn trăm mười chín nghìn, hai trăm năm mươi đồng theo tỷ giá USD thời điểm giao dịch). Qúa trình điều tra vụ án, Cơ quan CSĐT - Công an tỉnh Đồng Nai và Cơ quan CSĐT (C02) - Bộ Công an đã có nhiều văn bản đề nghị Văn phòng INTERPOL Tổng cục Cảnh sát Bộ Công an xác minh làm rõ việc chuyển tiền cho 3 tổ chức này tại Australia (Úc), nhưng chưa có kết quả; gửi Viện kiểm sát nhân dân tối cao yêu cầu thực hiện uỷ thác tư pháp về hình sự, chuyển hồ sơ uỷ thác tư pháp đến Cơ quan Tổng chưởng lý, Ô-xtơ-rây-li-a. Ngày 09/11/2021 Cơ quan CSĐT (C02) - Bộ Công an đã có Công văn số 5457/CSHS-P8 gửi Bộ Công Thương xác minh về việc hai Công ty trên có đăng ký Văn phòng đại diện tại Việt Nam hay không. Tại Công văn số 7945/BCT-KH ngày 13/12/2021 của Bộ Công Thương xác định đến hết ngày 24/11/2021 Bộ Công Thương chưa cấp phép thành lập Văn phòng đại diện cho thương nhân EVO GLOBAL asset management limited và thương nhân GLEEDS AUSLIA.plyltd (Austraylia) tại Việt Nam. Tòa án đã trả hồ sơ để kiểm tra việc ủy thác nhưng vẫn chưa có kết quả. Quá trình chuẩn bị xét xử đã có kết quả ủy thác, theo tài liệu dịch thuật thì: kết quả không liên lạc được với các chủ thể mà bị cáo Nguyễn Văn Tình và Nguyễn Thị Chí Sương khai. Tuy nhiên, số tiền trên Tình và Sương chiếm đoạt của các bị hại, việc Tình và Sương khai đã chuyển tiền đến các Công ty trên nhưng không chứng minh được và cơ quan tố tụng đã thực hiện các hoạt động tố tụng nhưng chưa có kết quả để thu hồi số tiền trả cho bị hại. Do đó cần buộc Tình và Sương có trách nhiệm phải trả số tiền trên cho các bị hại là phù hợp quy định pháp luật.

 [7] Đối với tài sản đã bán đấu giá thi hành án:

[7.1] Về tình trạng pháp lý:

Đối với 07 thửa đất số 180, 236, 237, 286, 237b, 237c và 707 tại tờ bản đồ số 3, xã Tam Phước, huyện Long Thành, Đồng Nai (nay là các thửa đất số 11, 13, 14, 19, 20, 40, 41 tờ bản đồ số 6, phường Tam Phước, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai) do Nguyễn Văn Tình và Nguyễn Thị Chí Sương đứng tên. 

  • Ngày 25/6/2015, Cục Thi hành án dân sự tỉnh Đồng Nai ra Quyết thi hành án số 75/QĐ-CTHA thi hành Bản hình sự phúc thẩm số 274/2015/HSPT ngày 21/5/2015 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh. 
  • Ngày 27/10/2015, Cục Thi hành án dân sự tỉnh Đồng Nai ra Quyết cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản số 01/QĐ-THA. Theo đó đã kê biên, tổ chức bán đấu giá tài sản và giao các thửa đất trên cho người trúng đấu giá là ông Lê Đình Tài theo Hợp đồng mua bán tài sản đấu giá số 34/2017/HĐ.MBTS ngày 29/6/2017 theo quy định pháp luật về bán đấu giá. 
  • Ngày 13/11/2017 Sở Tài nguyên môi trường tỉnh Đồng Nai đã cấp giấy chứng quyền sử dụng 05 thửa đất số 11, 13, 14, 40, 41 tờ bản đồ số 6, xã Tam Phước, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai cho ông Lê Đình Tài. Theo hồ sơ thể hiện 05 thửa đất nêu trên được người mua trúng đấu giá là ông Lê Đình Tài đã chuyển nhượng lại cho các ông bà Phạm Thị Bút, Nguyễn Xuân An, Nguyễn Thị Ninh, Lê Thị Hữu và ngày 05/02/2018 đã được cơ có thẩm quyền cập nhật tên trên trang 04 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Các ông bà Phạm Thị Bút, Nguyễn Xuân An, Nguyễn Thị Ninh, Lê Thị Hữu đề nghị Tòa án căn cứ các quy định pháp luật bảo vệ cho các ông bà Phạm Thị Bút, Nguyễn Xuân An, Nguyễn Thị Ninh, Lê Thị Hữu đã nhận chuyển nhượng lại tài sản 05 thửa đất nêu trên.

[7.2] Về kiến nghị và thực hiện kiến nghị của các cơ quan, tổ chức liên quan theo hồ sơ thể hiện:

1.   - Ngày 16/9/2019, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã ban hành Kết luận số 83/KL-VKSTC nêu các sai phạm trong việc thi hành kê biên, bán đấu giá tài sản của Nguyễn Văn Tình, Nguyễn Thị Chí Sương.

2.   - Tại Quyết định số 20/2021/HS-GĐT ngày 22/4/2021, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao kiến nghị Cục Thi hành án dân sự tỉnh Đồng Nai hủy kết quả bán đấu giá tài sản theo Quyết định thi hành án số 75/QĐ-CTHA ngày 25/6/2015 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Đồng Nai và tiếp tục kê biên 10,2 ha đất để bảo đảm việc thi hành án.

3.   - Ngày 23/11/2021, Cục thi hành án dân sự tỉnh Đồng Nai có văn bản số 2000/CTHADS-KT về việc báo cáo xin ý kiến chỉ đạo thực hiện kiến nghị của Tòa án nhân dân Tối cao.

4.   - Ngày 31/3/2022, Cục thi hành án dân sự tỉnh Đồng Nai đã có văn bản số 552/CTHADS-KT xác định: Căn cứ vào Kết luận của Chánh thanh tra Bộ Tư pháp tại văn bản số 29/ KL.TTr ngày 10/8/2018 đã công nhận kết quả bán đấu giá tài sản, Cục THADS kết luận: “Việc ông Lê Đình Tài đăng ký tham gia đấu giá cũng là người mua được tài sản bán đấu giá công khai, ngay tình được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp theo quy định tại khoản 3 Điều 7 Luật đấu giá tài sản và khoản 2 Điều 103 Luật thi hành án dân sự”.

5.   - Tại văn bản số 2868/CTHADS.NV ngày 18/10/2023 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Đồng Nai về nội dung thực hiện kiến nghị tại Quyết định Giám đốc thẩm nêu trên đã xác định như sau: “Tại văn bản số 176/TCTHADS-NV2 ngày 13/01/2022 đã xác định với nội dung: Cục THADS tỉnh Đồng Nai không căn cứ vào phần nhận định của Quyết định số 20/2021/HS-GĐT để hủy kết quả bán đấu giá tài sản vì người mua trúng đấu giá tài sản được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp theo quy định tại khoản 3 Điều 7 Luật đấu giá tài sản và khoản 2 Điều 103 Luật thi hành án dân sự. Do vậy, Cục thi hành án dân sự tỉnh Đồng Nai không có cơ sở để hủy kết quả bán đấu giá tài sản nêu trên”.

6.   - Tại văn bản số 7416/VKSTC-V2 ngày 29/9/2023 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao trả lời như sau: Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao thụ lý điều tra, xác minh theo trình tự, thủ tục trong lĩnh vực xâm phạm hoạt động tư pháp, xem xét sai phạm của chấp hành viên trong việc bán đấu giá tài sản, hiện tại đang tạm đình chỉ giải quyết nguồn tin về tội phạm theo Quyết định số 22/VKSTC- C1(P5) ngày 06/4/2020.

[7.3] Đánh giá việc xử lý tài sản để đảm bảo thi hành án:

  • Đối với các thửa đất 237b, 237c tại tờ bản đồ số 3, xã Tam Phước, huyện Long Thành, Đồng Nai (trước đây là các thửa đất số 891, 892 tờ bản đồ số 6, xã Tam Phước, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai) đã được UBND huyện Long Thành cấp giấy chứng nhận QSDĐ số AH366040 và AH36639 cho bà Nguyễn Thị Chí Sương ngày 04/4/2007. Sau đó 02 thửa đất này đã được bà Sương chuyển nhượng cho bà Trần Thị Ánh Hồng và được UBND thành phố Biên Hòa cấp giấy chứng nhận QSDĐ số BH881904 và BH899353 ngày 29/02/2012 nay là các thửa đất số 19, 20 tờ bản đồ số 6, phường Tam Phước, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Tuy nhiên, Cục thi hành án dân sự tỉnh Đồng Nai vẫn ban hành Quyết định thi hành án và Bộ công an đề nghị tạm ngừng giao dịch với 02 thửa đất này là chưa phù hợp với quy định pháp luật. 
  • Các thửa đất số 180, 236, 237, 286, và 707 tại tờ bản đồ số 3, xã Tam Phước, huyện Long Thành, Đồng Nai (nay là các thửa đất số 11, 13, 14, 40, 41 tờ bản đồ số 6, phường Tam Phước, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai) đã được Cục Thi hành án dân sự tỉnh Đồng Nai tổ chức bán đấu giá và bàn giao tài sản trúng đấu giá cho ông Lê Đình Tài, ông Lê Đình Tài đã chuyển nhượng cho 04 cá nhân khác đã được Cơ quan nhà nước cấp giấy chứng nhận QSDĐ theo quy định của pháp luật. Tính đến thời điểm xét xử vụ án, Tòa án không nhận được Thông báo thụ lý hay Bản án tuyên hủy kết quả đấu giá (đối với 05 thửa đất này) theo Điều 72 Luật thi hành án và thủ tục tố tụng dân sự. Đồng thời, Thanh tra Bộ tư pháp đã có kết luận số 29/KL-TTR ngày 10/8/2018 và Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao đang tạm đình chỉ giải quyết nguồn tin về tội phạm theo Quyết định số 22/VKSTC- C1(P5) ngày 06/4/2020. Cần kiến nghị Cơ quan cảnh sát điều tra - Bộ công an xem xét lại Công văn số 5828/CSHS-P8 và 5829/CSHS-P8 ngày 29/11/2021 của Cơ quan CSĐT (C02) - Bộ Công an nhằm đảm bảo lợi ích hợp pháp của những người trên. 
  • Tại văn bản số 2868/CTHADS.NV ngày 18/10/2023 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Đồng Nai đã cung cấp thông tin về kết quả thi hành án như sau
    • Đã kê biên các thửa đất 180, 181, 236, 237, 237b, 237c, 707, 286, 872 tờ bản đồ số 03 xã Tam Phước và 01căn nhà cùng các hạng mục công trình hạ tầng đầu tư trên các thửa đất, xử lý bán đấu giá tài sản quyền sử dụng đất có diện tích 102.200m2 thuộc các thửa 180, 236, 237, 237b, 237c, 707, 286 tờ bản đồ số 03 xã Tam Phước và 01 căn nhà cùng các hạng mục công trình hạ tầng đầu tư trên các thửa đất. Sau khi bán đấu giá tài sản, người mua được tài sản đã nộp đủ tiền, ngày 11/10/2017 Cục thi hành án dân sự tỉnh Đồng Nai đã phối hợp chính quyền địa phương giao tài sản cho người mua được tài sản đấu giá. Tổng số tiền thu được từ bán tài sản (sau khi trừ chi phí thẩm định giá, bán đấu giá, thuế thu nhập cá nhân) là 13.254.397.368 đồng. Đã thanh toán chi trả tiền bán được tài sản cho ông Lê Đình Tài, bà Trần Thị Hải Yến số tiền 12.000.066.241 đồng và bà Phan Thị Dễ số tiền 898.931.127 đồng (theo Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 72/2012/QĐST.DS ngày 04/9/2012 của Tòa án nhân dân quận 2 thành phố Hồ Chí Minh). Số tiền còn lại chưa thanh toán, Cục thi hành án dân sự tỉnh Đồng Nai đang tạm giữ là 355.400.000 đồng. Vật chứng do VKSND tỉnh Đồng Nai chuyển ngày 21/6/2011 chưa xử lý, án phí chưa thu. 
  • Về thực hiện kiến nghị tại Quyết định giám đốc thẩm số 20/2021/HS-GĐT ngày 22/4/2021 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về việc đề nghị Cục thi hành án dân sự tỉnh Đồng Nai tiến hành thủ tục hủy kết quả bán đấu giá tài sản, vấn đề này đã có văn bản hướng dẫn của Tổng cục thi hành án dân sự-Bộ tư pháp là không căn cứ phần nhận định của Quyết định giám đốc thẩm số 20/2021/HS-GĐT ngày 22/4/2021 để hủy kết quả bán đấu giá tài sản vì người mua trúng đấu giá tài sản được bảo vệ quyền và lợi ích pháp pháp theo quy định tại khoản 3 Điều 7 Luật đấu giá tài sản và khoản 2 Điều 103 Luật thi hành án dân sự do đó Cục thi hành án dân sự tỉnh Đồng Nai không có cơ sở để hủy kết quả bán đấu giá tài sản nêu trên.
  • Theo quy định pháp luật: tại khoản 2 Điều 103 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người mua được tài sản bán đấu giá đã nộp đủ tiền mua tài sản bán đấu giá nhưng bản án, quyết định bị kháng nghị, sửa đổi hoặc bị hủy thì Cơ quan thi hành án dân sự tiếp tục giao tài sản, trừ trường hợp kết quả bán đấu giá bị hủy theo quy định của pháp luật. Kết quả bán đấu giá chỉ bị hủy khi chủ thể khiếu nại, khởi kiện ra Tòa và được Tòa án tuyên bố kết quả đấu giá vô hiệu. Tuy nhiên, đến thời điểm xét xử vụ án hình sự này thì Kết quả bán đấu giá không bị khởi kiện và chưa bị Tòa án tuyên hủy kết quả bán đấu giá theo quy định Bộ luật tố tụng dân sự. Quá trình chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa, HĐXX nhận được đơn yêu cầu của một số bị hại yêu cầu đưa 10,2 ha đất dự án vào làm tang vật trong vụ án này. Tuy nhiên, HĐXX xét thấy đối với 10,2 ha đất này là tài sản của bị cáo Tình và Sương trước đây bị Cơ quan cảnh sát điều tra kê biên để đảm bảo thi hành án không phải là Vật chứng của vụ án theo Điều 89 Bộ Luật tố tụng hình sự, đồng thời như đã phân tích ở trên hiện nay 10,2 ha này đã được thi hành án và bán đấu giá tài sản xong, trong khi quy định pháp luật không có quy định nào cho phép HĐXX đưa 10,2 ha này vào làm tang vật vụ án và xử lý theo khoản 4 Điều 170 Luật thi hành án dân sự nên yêu cầu này của các bị hại cũng như quan điểm của Viện kiểm sát về xử lý đối với 10,2 ha đất này là không có căn cứ để chấp nhận.

[8] Về một số nội dung khác:

  • - Quá trình điều tra, bị can Đặng Đức Trung bỏ trốn, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Đồng Nai đã ra Quyết định truy nã số 02/QĐ ngày 10/10/2013 và tạm đình chỉ điều tra bị can đối với Trung. Đối với bị can Trần Đức Phương, hiện đã bỏ trốn, ngày 24/11/2022, Cơ quan CSĐT (C02) - Bộ Công an đã ra Lệnh truy nã, Quyết định tách vụ án và tạm đình chỉ điều tra bị can đối với Phương, khi bắt được sẽ xử lý sau.
  • - Trong vụ án này, ông Phạm Trí Đức là người môi giới, giới thiệu Trần Đức Phương cho Đặng Đức Trung gặp nhau và ký hợp đồng môi giới bán nền dự án khu dân cư Tam Phước. Đức có tham gia bàn bạc, thỏa thuận việc tăng giá bán 200.000đ/m2 với các nền đất tại dự án khu dân cư Tam Phước, thu thêm tiền hệ số đường, hệ số góc của khách hàng, thỏa thuận việc ăn chia tiền hoa hồng cùng Đặng Đức Trung, Đặng Trọng Nhân, Trần Đức Phương với thỏa thuận Đức được hưởng tiền hoa hồng là 2% trên tổng giá trị hợp đồng của khách hàng; Đức không phải là nhân viên Công ty Sài Gòn Cây Cảnh nhưng vẫn ký nhận 5.149.800.000 đồng trên 36 phiếu chi của Công ty Nam Tiến; theo tài liệu có trong hồ sơ, Đức đã nhận số tiền hoa hồng là 1.043.152.000 đồng cộng với 750.000.000 đồng tiền hệ số đường, hệ số góc, tổng số tiền Đức hưởng lợi là 1.793.152.000 đồng. Xét thấy, Phạm Trí Đức có liên quan đồng phạm giúp sức cho Đặng Đức Trung và Trần Đức Phương để Phương và Trung giúp sức cho Tình và Sương chiếm đoạt nhiều tiền của bị hại. Tòa án đã trả hồ sơ điều tra bổ sung yêu cầu làm rõ hành vi đồng phạm của Phạm Trí Đức. Nhưng Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm tại Văn bản số 7416/VKSTC-V2 ngày 29/9/2023 của Viện kiểm sát nhân dân Tối cao. Hội đồng xét xử nhận thấy hành vi của Phạm Trí Đức giúp sức cho Đặng Đức Trung và Trần Đức Phương, do Đặng Đức Trung và Trần Đức Phương bỏ trốn đang truy nã khi nào bắt được Đặng Đức Trung và Trần Đức Phương thì làm rõ hành vi đồng phạm của Phạm Trí Đức nếu có căn cứ xử lý theo quy định pháp luật sau.
  • - Tiếp tục tạm giữ số tiền 466.458.000 đồng (Bốn trăm sáu mươi sáu triệu bốn trăm năm mươi tám nghìn đồng) do Đặng Trọng Nhân nộp (đã nộp tại Cơ quan điều tra 300.000.000 đồng và nộp tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Đồng Nai 166.458.000) để đảm bảo thi hành án. (Theo ủy nhiệm chi chuyển khoản, chuyển tiền điện tử ngày 30/7/2014 tại Kho bạc Nhà nước tỉnh Đồng Nai và Biên lai thu tiền số 004060 ngày 13/02/2015 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Đồng Nai (tại bút lục số 10947a và 11221).
  • - Đối với sai phạm của ông Ngô Văn Nam, ông Huỳnh Định, ông Lê Hoàng Long nhân viên Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam Chi nhánh Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh đã được đề cập trong Bản án hình sự sơ thẩm số 108/2014/HSST ngày 25/9/2014 của TAND tỉnh Đồng Nai và Bản án hình sự phúc thẩm số 274/2015/HSPT ngày 21/5/2015 của Tòa phúc thẩm TAND tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh. Tòa án đã trả hồ sơ điều tra bổ sung tại Quyết định số 36/2023/QĐST-HS ngày 31/8/2023, tuy nhiên tại Văn bản số 7416/VKSTC-V2 ngày 29/9/2023 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao trả lời yêu cầu điều tra bổ sung, xác định: không có căn cứ chứng minh ông Ngô Văn Nam, ông Huỳnh Định, ông Lê Hoàng Long có vụ lợi cá nhân khi thực hiện các hành vi vi phạm quá trình làm thủ tục thẩm định giá tài sản thế chấp và thủ tục đăng ký xóa thế chấp tài sản cho Nguyễn Văn Tình và Nguyễn Thị Chí Sương tiếp tục vay tiền Ngân hàng. Ngày 09/10/2017 và ngày 29/10/2017 đại diện theo ủy quyền của Nguyễn Văn Tình và Nguyễn Thị Chí Sương đã trả đủ tiền gốc 12.650.000.000 đồng cho Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam Chi nhánh Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, tiền lãi Ngân hàng đã miễn theo quy định pháp luật, nên Cơ quan điều tra không xử lý trong vụ án này.
  • - Đối với trách nhiệm của cá nhân cán bộ Sở kế hoạch đầu tư, Sở tài nguyên môi trường, Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai liên quan trong việc chấp thuận địa điểm cho Công ty cổ phần Sài Gòn Cây Cảnh lập thủ tục đầu tư dự án KDC Tam Phước, không kiểm tra năng lực tài chính, kinh nghiệm đầu tư xây dựng dự án. Vai trò, trách nhiệm của cán bộ, công chức có chức năng nhiệm vụ quản lý Nhà nước về đất đai tại địa phương và Ủy ban nhân dân huyện Long Thành trong việc để các bị can xây dựng cơ sở hạ tầng trên đất khi chưa được cấp phép, tổ chức nhiều buổi hội thảo, quảng bá, phóng sự về dự án KDC Tam Phước tại Đồng Nai Tòa án đã trả hồ sơ điều tra bổ sung tại Quyết định số 36/2023/QĐST-HS ngày 31/8/2023 để xem xét xử lý trách nhiệm những người này. Tuy nhiên tại Văn bản số 7416/VKSTC-V2 ngày 29/9/2023 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao trả lời yêu cầu điều tra bổ sung, xác định: đề xuất kiến nghị yêu cầu Công ty cổ phần Sài Gòn Cây Cảnh làm việc với báo Tuổi trẻ xác định cá nhân, tổ chức liên hệ đăng báo về việc rao bán đất nền dự án, nếu việc đăng thông tin không liên quan đến Công ty cổ phần Sài Gòn Cây Cảnh thì giao Thanh tra tỉnh xác minh, xử lý. Do đó, Hội đồng xét xử tiếp tục kiến nghị Cơ quan có thẩm quyền tiếp tục xem xét trách nhiệm của các cá nhân của các cơ quan liên quan trên.
  • - Đối với số tiền 40.150.394.277 đồng, Cơ quan điều tra thu thập chứng cứ đã chứng minh được vợ chồng bị cáo Tình và Sương vay của vợ chồng ông Tài, bà Yến, tại phiên tòa các bị cáo Tình và Sương thừa nhận chữ ký chữ viết của các bị cáo nhưng cho rằng chưa nhận số tiền này của ông Tài và bà Yến đây là giao dịch dân sự nên không xem xét giải quyết trong vụ án này. Do đó, HĐXX không chấp nhận bổ sung tư cách tố tụng là nguyên đơn dân sự trong vụ án này đối với ông Lê Đình Tài và bà Trần Thị Hải Yến mà dành quyền khởi kiện bằng vụ án dân sự khác đối với số tiền này khi các đương sự có yêu cầu.
  • - Đối với đơn yêu cầu xem xét của bà Vũ Thị Tuyết Vân liên quan đến việc bà Vân bảo lãnh cho bị cáo Tình, Sương vay số tiền 900.000.000đ có thế chấp bằng 02 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AH 422868 và AB 016607, HĐXX nhận thấy đây là giao dịch dân sự nên không xem xét giải quyết trong vụ án này. Do đó, HĐXX không chấp nhận yêu cầu này mà dành quyền khởi kiện bằng vụ án dân sự khác cho bà Vân khi có yêu cầu.
  • - Đối với 02 xe ô tô (01 xe nhãn hiệu Lexus, 01 xe nhãn hiệu Bentley Flying Spur). Căn cứ vào tài liệu chứng cứ trong hồ sơ vụ án thì người mua và trả tiền 02 xe ô tô trên là Công ty TNHH Thương mại và Dịch vụ Hà Linh (ở Đồng Nai) tổng số tiền 7.694.500.000đ. Do đó, lời khai vợ chồng bị cáo Nguyễn Văn Tình trình bày các bị cáo Tình và Sương đã trả tiền 12 tỷ đồng để mua 02 xe ô tô trên cho ông Lê Đình Tài là không có cơ sở. Ngoài lời khai trên vợ chồng bị cáo Nguyễn Văn Tình không có tài liệu, chứng cứ chứng minh.
  • - Đối với ý kiến của Luật sư Hoàng Như Vĩnh về xác định tội danh của bị cáo Nguyễn Văn Tình và Trần Thị Chí Sương phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” đối với bị hại là ông Lê Đình Tài, bà Trần Thị Hải Yến: Nội dung này đã được HĐXX phân tích tại mục [3] và cũng phù hợp với nhận định của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao tại Quyết định Giám đốc thẩm số 20/2021/HS-GĐT ngày 22/4/2021 nên ý kiến này của Luật sư Vĩnh là không có cơ sở để chấp nhận.
  • - Đối với ý kiến của Luật sư Đỗ Hữu Đĩnh cho rằng các bị cáo không phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” do được phép quảng cáo để huy động vốn thông qua hợp đồng góp vốn đầu tư (trước khi nghị định 71/2010/NĐ-CP có hiệu lực), đồng thời các bị hại là đồng sở hữu hợp pháp của dự án này: HĐXX nhận thấy, như đã phân tích tại mục [3] thời điểm các bị cáo ký “Hợp đồng góp vốn” nhằm chiếm đoạt tài sản là chưa có đủ điều kiện pháp lý theo quy định tại Điều 8, Điều 11 và Điều 39 Luật Nhà ở 2006 nên ý kiến này của Luật sư Đĩnh là không có căn cứ để chấp nhận.

[9] Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cơ bản phù hợp nhận định một phần của HĐXX nên được chấp nhận một phần.

  • Xét quan điểm bào chữa của Luật sư Trần Việt Cường và Luật sư Trần Hải Đức bào chữa cho bị cáo Nguyễn Văn Tình và Nguyễn Thị Chí Sương không phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên không được chấp nhận.
  • Xét quan điểm bào chữa của Luật sư Nguyễn Hữu Thế Trạch bào chữa cho bị cáo Võ Hoàng Yến và Đinh Quốc Lực chỉ phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử về các tình tiết giảm nhẹ, nhân thân, hoàn cảnh của các bị cáo nên được chấp nhận một phần. Riêng quan điểm cho rằng các bị cáo không phạm tội với tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự phạm tội 02 lần trở lên và số tiền hơn 6 tỷ của bị cáo Lực hưởng lợi không phù hợp nhận định của Hội đồng xét xử nên không được chấp nhận.
  • Xét quan điểm bào chữa của Luật sư Vũ Duy Nam bào chữa cho bị cáo Đặng Trọng Nhân chỉ phù hợp một phần nhận định của Hội đồng xét xử về các tình tiết giảm nhẹ nên được chấp nhận một phần. Riêng đề nghị xem xét mức hình phạt cho bị cáo Nhân bằng với thời gian bị cáo Nhân đã tạm giam và đề nghị không áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự phạm tội 02 lần trở lên không phù hợp nhận định của Hội đồng xét xử nên không được chấp nhận.
  • Xét quan điểm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Luật sư Hoàng Như Vĩnh bảo vệ cho bị hại Lê Đình Tài và bà Trần Thị Thị Hải Yến chỉ phù hợp một phần nhận định của Hội đồng xét về số tiền chiếm đoạt 30 tỷ, 02 xe ô tô, nội dung trình bày về thủ tục tài sản bán đấu giá nên được chấp nhận một phần. Riêng quan điểm đề nghị xác định thêm tư cách ông Tài là nguyên đơn dân sự và yêu cầu giải quyết số tiền vay hơn 40 tỷ trong vụ án không phù hợp nhận định của Hội đồng xét xử nên không được chấp nhận.
  • Xét quan điểm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Luật sư Đỗ Hữu Đĩnh bảo vệ cho bị hại Nguyễn Thị Điệp chỉ phù hợp một phần liên quan số tiền thiệt hại đã được Cơ quan điều tra Kết luận và Cáo trạng truy tố. Riêng quan điểm cho rằng các bị cáo không phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, đề nghị hủy kết quả bán đấu giá không phù hợp nhận định của Hội đồng xét xử nên không được chấp nhận.
  • Xét quan điểm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Luật sư Nguyễn Thị Hà Nhi bảo vệ cho người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị Thùy Lan phù hợp nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

 [10] Về án phí HSST: 

  • Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án, buộc các bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
  • Về án phí DSST: Bị cáo Nguyễn Văn Tình và Nguyễn Thị Chí Sương phải liên đới chịu: 430.439.880 đồng; Bị cáo Đinh Quốc Lực phải chịu 114.539.160 đồng; Bị cáo Võ Hoàng Yến phải chịu 53.547.600 đồng; Ông Phạm Trí Đức phải chịu 65.794.560 đồng. Bị cáo Đặng Trọng Nhân và ông Phạm Trí Đức phải liên đới chịu: 70.800.000 đồng (đối với số tiền hệ số góc, hệ số đường).

Vì các lẽ trên,

 


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét