NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ
sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng trong quá
trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục
theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa,
bị cáo không khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về nội dung vụ án: Xét hành vi của bị cáo Nguyễn Văn N, Hội
đồng xét xử nhận thấy, Khoảng 15 giờ 30 phút ngày 13-02-2024, do tức giận việc
anh Đặng Thành Đ nói lại cho chị Nguyễn Thị Tường V biết việc bị cáo N đánh bạc
thua hết tiền, nên bị cáo lấy dao bấm bằng kim loại dài 34cm đến quán C thuộc ấp
P, xã P, huyện G, tỉnh Tây Ninh, tìm gặp anh Đ, dẫn đến cự cãi nhau; N dùng tay
đánh anh Đ ngã ngửa và dùng dao đâm nhiều nhát từ trên xuống trúng vào mắt,
môi, cằm, cổ, tay, chân dẫn đến anh Đ tử vong do suy tuần hoàn hô hấp do đa chấn
thương, vì bị thủng nhãn cầu trái; vết thương đứt da, cơ cẳng tay phải gây đứt
động mạch, tỉnh mạch tay phải; cùng lúc này khi chị Tô Hồng N1 đứng sau kéo áo
bị cáo N để can ngăn thì bị cáo N quay lại dùng dao đâm 01 nhát trúng ngực chị
N1 gây tổn thương cơ thể 03%. Việc chị N1 không chết là do đã né tránh kịp thời,
ngoài ý muốn chủ quan của bị cáo. Qua điều tra, bị cáo N thừa nhận hành vi phạm
tội.
- Xét thấy lời nhận tội của bị cáo phù hợp với bản tự khai do chính bị cáo viết, kết luận giám định, lời khai của bị hại N1, vật chứng thu giữ, cùng các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, có cơ sở xác định hành vi của bị cáo Nguyễn Văn N đủ yếu tố cấu thành tội “Giết người” theo quy định tại Điều 123 của Bộ luật Hình sự, với tình tiết định khung hình phạt “Giết 02 người trở lên” và “Có tính chất côn đồ” theo quy định tại điểm a, n khoản 1 Điều 123 của Bộ luật Hình sự, nên Cáo trạng truy tố bị cáo là có căn cứ.
- Tại phiên toà, bị cáo trình bày việc bị cáo quơ dao trúng chị N1 nên bị cáo không phạm tình tiết định khung hình phạt là “Giết 02 người trở lên”, nhận thấy bị cáo biết dùng dao là hung khí nguy hiểm tác động vào vùng ngực của bị hại N1 có thể dẫn đến chết người nhưng bị cáo vẫn thực hiện. Ngoài ra, bị cáo và Luật sư bào chữa cho bị cáo trình bày bị cáo không phạm tình tiết định khung hình phạt “Có tính chất côn đồ”, nhận thấy xuất phát từ nguyên nhân mâu thuẫn không lớn nhưng bị cáo đã dùng dao gây thương tích dẫn đến bị hại Được tử vong, thể hiện tính côn đồ; do đó không chấp nhận lời trình bày của bị cáo.
[3] Xét vụ án mang tính chất đặc biệt nghiêm trọng, hành vi
phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến tính mạng,
sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ. Xuất phát từ những mâu thuẫn nhỏ
nhặt, bị cáo đã dùng dao bấm là hung khí nguy hiểm gây thương tích cho bị hại;
hậu quả bị hại Được đã chết do đa chấn thương và bị hại N1 bị vết thương kích
thước lớn vùng ngực, với tỷ lệ tổn thương cơ thể chị N1 tại thời điểm giám định
là 03%; hành vi của bị cáo thể hiện tính chất côn đồ; nên cần xử lý nghiêm bị
cáo để bảo đảm tính răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm.
[4] Khi quyết định hình phạt có xem xét đến các tình tiết
tăng nặng, giảm nhẹ, trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:
- 4.1 Tình tiết tăng nặng: bị cáo N phạm tội đối với chị N1 là phụ nữ đang mang thai, nên áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo theo điểm i khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.
- 4.2. Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo N thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo đã bồi thường cho ông L là người đại diện hợp pháp bị hại Được số tiền 210.000.000 đồng và ông L đã làm đơn xin bãi nại; bồi thường cho bị hại Tô Hồng N1 số tiền 50.000.000 đồng; sau khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo đã ra đầu thú; nên áp dụng tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo theo điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Từ những phân tích trên, có căn cứ chấp nhận lời đề nghị của Kiểm sát viên tại
phiên tòa; chấp nhận một phần lời đề nghị của vị Luật sư Q bào chữa cho bị cáo
và Luật sư N là người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho bị hại N1 và ông L là
người đại diện hợp pháp cho bị hại Được; nên cần áp dụng mức hình phạt tương xứng
với hành vi phạm tội của bị cáo nhằm đảm bảo tính răn đe, giáo dục và phòng ngừa
chung.
[5] Về bồi thường: Căn cứ Điều 48 Bộ luật Hình sự; Điều 590, Điều 591 của Bộ luật Dân sự.
- Tại phiên toà, bị cáo N tự nguyện đồng ý bồi thường cho bị hại N1 yêu cầu các khoản tổng cộng là 167.000.000 đồng và bồi thường cho ông L là người đại diện hợp pháp bị hại Được yêu cầu các khoản tổng cộng là 290.000.000 đồng.
- Ghi nhận bị cáo đã bồi thường cho bị hại N1 được số tiền 50.000.000 đồng và đã bồi thường cho ông L là người đại diện hợp pháp bị hại Được số tiền 210.000.000 đồng. Nên bị cáo N còn phải bồi thường tiếp số tiền còn lại.
- Tại phần tranh luận, Luật sư N yêu cầu bị cáo N bồi thường cho chị N1 tiền trợ cấp nuôi con chị N1, anh Đ; nhận thấy không phù hợp nên không chấp nhận.
[6] Về xử lý vật chứng đã thu giữ:
- Xét thấy các vật chứng đã thu giữ không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy. (Các vật chứng trên hiện Cục Thi hành án dân sự tỉnh Tây Ninh đang quản lý theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 01-11-2024).
[7] Về án phí: bị cáo N phải chịu án phí hình sự sơ thẩm
là 200.000 đồng và án phí dân sự sơ thẩm trên tổng số tiền còn phải bồi
thường tiếp theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét