【Bản án số 61 ngày 28/07/2023】NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN: 

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau: 

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T1, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện T1, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo, không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp. 

[2] Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, các bị cáo đều khai nhận: 

Trong khoảng thời gian từ ngày 13/11/2021 đến ngày 10/3/2023, Vũ Thành L, Vũ Hồng L1 đã bàn bạc với nhau cho anh Nguyễn Đắc Đ, Đỗ Lâm Th, Vũ Tiến D , Nguyễn Hữu Ph , Trần Đức Ch, Nguyễn Văn T , Trần Văn Ph , Phạm Văn L, Phạm Văn L, chị Trần Thanh Ng vay tổng số tiền là 158.000.000 đồng với mức lãi suất từ 3.000 đồng/1.000.000 đồng/1 ngày đến 5.000 đồng/1.000.000 đồng/1 ngày (gấp từ 5.4 đến 9 lần so với mức lãi suất cao nhất theo quy định của Bộ luật Dân sự). Tổng số tiền lãi L, L1 đã thỏa thuận với những người vay là là 78.888.000 đồng, đã nhận được là 77.222.000 đồng, trong đó thu lợi bất chính là 65.757.000 đồng. Ngoài ra Vũ Hồng L1 còn cho anh Phạm Thế V vay số tiền 30.000.000 đồng với mức lãi suất 3000 đồng/1.000.000 triệu/ngày (gấp 5,4 lần mức lãi suất cao nhất theo quy định của Bộ luật Dân sự), đã nhận 2.700.000 đồng tiền lãi, thu lời bất chính riêng số tiền 2.700.000 đồng. 

Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp và được chứng minh bằng: 

  • Biên bản tạm giữ tài sản, đồ vật, tài liệu, biên bản giao nhận tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử, biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ, biên bản làm việc về việc kiểm tra điện thoại do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T1 lập ngày 11/3/2023 tại Công an huyện T1; 
  • Bản sao kê tài khoản ngân hàng mang tên Phạm Văn L; Vũ Hồng L1 tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và phát triển Việt Nam; 
  • Tài khoản mang tên Lê Thị Th tại ngân hàng HD bank; 
  • Biên bản ghi lời khai của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. 

Từ những chứng cứ nên trên, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: 

Trong khoảng thời gian từ ngày 13/11/2021 đến ngày 10/3/2023, Vũ Thành L, Vũ Hồng L1 đã cho anh Nguyễn Đắc Đ, Đỗ Lâm Th, Vũ Tiến D , Nguyễn Hữu Ph , Trần Đức Ch, Nguyễn Văn T , Trần Văn Ph , Phạm Văn L, Phạm Văn L, chị Trần Thanh Ng vay tổng số tiền là 158.000.000 đồng với mức lãi suất từ 3.000 đồng/1.000.000 đồng/1 ngày đến 5.000 đồng/1.000.000 đồng/1 ngày (gấp từ 5.4 đến 9 lần so với mức lãi suất cao nhất theo quy định của Bộ luật Dân sự). Tổng số tiền lãi L, L1 đã thỏa thuận với những người vay là là 78.888.000 đồng, đã nhận được là 77.222.000 đồng, trong đó thu lợi bất chính là 65.757.000 đồng. Ngoài ra Vũ Hồng L1 còn cho anh Phạm Thế V vay số tiền 30.000.000 đồng với mức lãi suất 3000 đồng/1.000.000 triệu/ngày (gấp 5,4 lần mức lãi suất cao nhất theo quy định của Bộ luật Dân sự) thu lời bất chính riêng số tiền 2.700.000 đồng, cụ thể: 

  • - Các ngày 13/11/2021, 14/12/2021, 09/02/2022, 11/3/2022, 03/8/2022, 22/8/2022, 07/12/2022, 10/02/2023, 28/02/2023, 03/3/2023 L và L1 cho anh Nguyễn Đắc Đ, sinh năm 1986 trú tại thôn B, xã TG, huyện T1, tỉnh T2 vay tổng số tiền là 85.000.000 đồng với mức lãi suất từ 3.000 đồng/1.000.000 đồng/1 ngày đến 5.000 đồng/1.000.000 đồng/1 ngày và đã thu lãi 31.500.000, trong đó số tiền thu lợi bất chính là 25.683.000 đồng, toàn bộ tiền gốc anh Đ đã trả cho L và L1. 
  • - Các ngày 19/3/2022, 02/9/2022, 03/12/2022, 06/01/2023 L và L1 cho Phạm Văn L, sinh năm 2002, trú tại thôn DL, xã NT, huyện T1 vay tổng số tiền 9.000.000 đồng, lãi suất thỏa thuận là 5.000 đồng/1triệu/1ngày với tổng số tiền là 7.320.000 đồng, đã thu lãi 7.200.000 đồng, trong đó số tiền thu lợi bất chính là 6.506.000 đồng, toàn bộ tiền gốc anh L đã trả cho L và L1. 
  • - Các ngày 09/7/2022, 05/11/2022, L và L1 cho anh Nguyễn Hữu Ph, sinh năm 1983, trú tại thôn PTĐ, xã PC, huyện T1 vay số tiền 2.000.000 đồng với mức lãi suất từ 3.000 đồng/1.000.000 đồng/1 ngày và đã thu lãi 1.080.000 đồng, trong đó số tiền thu lợi bất chính là 893.000 đồng, toàn bộ tiền gốc anh Ph đã trả cho L và L1. 
  • - Ngày 28/5/2021, L và L1 cho chị Trần Thanh Ng sinh năm 1984 trú tại thôn C, xã TG, huyện T1, tỉnh T2 vay số tiền 6.000.000 đồng với mức lãi suất là 5000 đồng/1triệu/1ngày. Sau đó, L bảo chị Nga đến nhà gặp Vũ Hồng L1 để viết giấy vay và nhận tiền. Chị Nga đã trả tiền lãi là 8.100.000 đồng, tiền lãi theo thỏa thuận là 8.460.000 đồng, trong đó thu lợi bất chính số tiền 7.520.000 đồng; chị Nga đã trả L và L1 toàn bộ tiền gốc. 
  • - Ngày 09/11/2022, L và L1 cho anh Đỗ Lâm Th sinh năm 1988, trú tại thôn B, xã TG, huyện T1 vay số tiền 9.000.000 đồng với mức lãi suất là 4000 đồng/1.000.000 đồng /1ngày. Anh Thao đã trả tiền lãi 4.320.000 đồng, tiền lãi theo thỏa thuận 4.356.000 đồng, trong đó thu lợi bất chính số tiền 3.751.000 đồng; anh Thao đã trả L và L1 toàn bộ tiền gốc. 
  • - Các ngày 30/5/2022, 22/6/2022, L và L1 cho anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1984, trú tại thôn PTĐ, xã PC, huyện T1 vay tổng số tiền là 10.000.000 đồng với mức lãi suất là 3000 đồng/1.000.000 đồng /1ngày và đã thu lãi là 7.650.000 đồng, số lãi theo thỏa thuận là 8.070.000 đồng, trong đó số tiền thu lợi bất chính là 6.575.000 đồng, toàn bộ tiền gốc anh Tuấn đã trả cho L và L1. 
  • - Các ngày 28/11/2021, 02/12/2021, L và L1 cho anh Phạm Văn L, sinh năm 1981, trú tại tổ dân phố số x, thị trấn T1, huyện T1 vay tổng số tiền là 11.000.000đồng, đã thu lãi 14.850.000 đồng, số lãi theo thỏa thuận là 15.174.000 đồng, trong đó số tiền thu lợi bất chính là 12.367.000 đồng. Anh Long đã trả L và L1 toàn bộ tiền gốc. 
  • - Các ngày 11/01/2023, 17/01/2023, L và L1 cho anh Vũ Tiến D sinh năm 1986, trú tại thôn TT, xã ĐL, huyện T1 vay tổng số tiền là 5.000.000đồng, với mức lãi suất là 3000 đồng/1.000.000 đồng /1ngày, đã thu lãi 450.000 đồng, số lãi theo thỏa thuận là 831.000 đồng, trong đó số tiền thu lợi bất chính là 677.000 đồng . Anh Dũng đã trả L và L1 toàn bộ tiền gốc. 
  • - Các ngày 16/02/2023, 01/3/2023 L và L1 cho anh Trần Văn Ph, sinh năm 1977, trú tại thôn DC, xã ĐM, huyện T1 vay tổng số tiền là 14.000.000đồng, với mức lãi suất là 3000 đồng/1.000.000 đồng /1ngày, đã thu lãi 392.000 đồng, số lãi theo thỏa thuận là 402.000 đồng, trong đó số tiền thu lợi bất chính là 327.000 đồng. Anh Phiến đã trả L và L1 toàn bộ tiền gốc. 
  • - Ngày 22/12/2022, L và L1 cho anh Trần Đức Ch sinh năm 1981, trú tại thôn PTĐ, xã PC, huyện T1 vay số tiền 7.000.000 đồng, với mức lãi suất là 4000 đồng/1.000.000 đồng /1ngày, đã thu lãi 1.680.000 đồng, trong đó thu lợi bất chính số tiền 1.458.000 đồng. Anh Chung đã trả L và L1 toàn bộ tiền gốc. 
  • - Ngoài ra ngày 03/2/2023, Vũ Hồng L1 còn cho anh Phạm Thế V, sinh năm 1983, trú tại thôn MC, xã DM, huyện T1, vay số tiền 30.000.000 đồng, lãi suất thỏa thuận 3000 đồng/ 1.000.000 đồng /ngày, đã thu lãi là 2.700.000 đồng, lãi suất theo thỏa thuận là 3.330.000 đồng, trong đó thu lợi bất chính số tiền 2.700.000 đồng (đối với khoản cho vay này bị cáo L không biết). Anh V chưa trả tiền nợ gốc cho Vũ Hồng L1. Mức lãi suất mà các bị cáo L và L1 cho những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vay tương đương lãi suất 108% đến 180%/1 năm, gấp 5,4 đến 9 lần so với mức lãi suất tối đa theo quy định của Bộ luật Dân sự. 

Khoản 1 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định : “Lãi suất vay do các bên thỏa thuận. Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác…Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quy định tại khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực”.

Các bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Hành vi của các bị cáo Vũ Thành L, Vũ Hồng L1 đã cấu thành tội “Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự” theo khoản 1 Điều 201 Bộ luật Hình sự. Vì vậy, Viện Kiểm sát nhân dân huyện T1, tỉnh T2 quyết định truy tố các bị cáo Vũ Thành L, Vũ Hồng L1 về tội “Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự” theo khoản 1 Điều 201 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật. 

Điều 321: Tội Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự 

1. Người nào trong giao dịch dân sự mà cho vay với lãi suất gấp 05 lần trở lên của mức lãi suất cao nhất quy định trong Bộ luật Dân sự, thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm. .........................................

3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. 

[3] Đánh giá tính chất, mức độ hậu quả hành vi phạm tội của các bị cáo thấy rằng: 

Hành vi phạm tội của các bị cáo Vũ Thành L, Vũ Hồng L1 tuy thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nhưng đã xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước về tín dụng, cụ thể là kinh doanh tiền tệ, đồng thời xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người vay. 

Các bị cáo nhận thức được hành vi cho vay với mức lãi suất cao hơn từ 5,4 đến 9 lần mức lãi suất của Bộ luật dân sự quy định là vi phạm pháp luật hình sự nhưng vì vụ lợi vẫn cố ý thức hiện. Vì vậy cần phải xử phạt bị cáo với mức án tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo gây ra để giáo dục riêng với các bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung cho xã hội. 

Đây là vụ án đồng phạm giản đơn, trong các lần phạm tội bị cáo L có vai trò là người khởi xướng về việc cho vay lãi nặng, trực tiếp hướng dẫn người vay đến gặp bị cáo L1 để vay tiền và ký giấy vay, hằng tháng theo dõi và đôn đốc người vay trả lãi, tuy nhiên bị cáo L1 lại một mình cho anh Phạm Thế V vay 01 lần 30.000.000 đồng để thu lợi bất chính nên có vai trò ngang nhau trong cùng vụ án. 

    • [3.1] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo Vũ Thành L, Vũ Hồng L1 đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội; phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; các bị cáo đã tự nguyện trả lại cho những người vay tiền số tiền thu lợi bất chính (trừ anh Phạm Thế V, Phạm Văn L và Trần Văn Ph không có mặt tại địa phương) và 8/11 người vay tiền đã có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo nên các bị cáo đều được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo L1 có thời gian tham gia quân đội nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Các bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự. 
    • [3.2] Về mức hình phạt và biện pháp chấp hành hình phạt: Về hình phạt chính: Căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy các bị cáo Vũ Thành L, Vũ Hồng L1 phạm tội ít nghiêm trọng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự nên chỉ cần áp dụng hình phạt tiền cũng đủ để giáo dục các bị cáo. Về hình phạt bổ sung, do đã áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.
    • [3.3] Về các biện pháp tư pháp: Đối với số tiền 158.000.000 đồng nợ gốc những người vay đã trả lại cho các bị cáo cùng số tiền lãi các bị cáo đã nhận của người vay tương ứng với mức lãi suất 20%/năm là khoản tiền phát sinh từ tội phạm, cần tịch thu sung quỹ Nhà nước, trong đó số tiền gốc 158.000.000 đồng là của bị cáo L1, do đó bị cáo L1 phải nộp lại toàn bộ; số tiền lãi các bị cáo đã nhận của người vay tương ứng với mức lãi suất 20%/năm, và số tiền lãi vượt quá quy định, các bị cáo đã sử dụng vào mục đích chi tiêu chung nên mỗi bị cáo phải chịu 50%. Đối với số tiền nợ gốc anh Phạm Thế V chưa trả cho Vũ Hồng L1 là khoản tiền phát sinh từ tội phạm, cần tịch thu sung quỹ Nhà nước. Đối với số tiền thu lời bất chính mà các bị cáo L, L1 đã thu của những người vay là các anh, chị: Nguyễn Đắc Đ, Đỗ Lâm Th, Vũ Tiến D, Nguyễn Hữu Ph, Trần Đức Ch, Nguyễn Văn T, Phạm Văn L, Trần Thanh Ng, các bị cáo đã trả cho những người vay nên không đặt ra giải quyết. Đối với số tiền thu lời bất chính từ các khoản vay của anh Trần Văn Ph và Phạm Văn L, cần buộc các bị cáo trả lại cho anh Phiến, anh L. Đối với số tiền thu lời bất chính từ khoản vay của anh Phạm Thế V do Vũ Hồng L1 cho vay riêng, cần buộc bị cáo L1 phải trả lại cho anh Văn. Do anh Phiến, L, Văn vay tiền không sử dụng vào mục đích bất hợp pháp. Đối với số tiền lãi theo thỏa thuận của một số người vay chưa trả đủ cho bị cáo L, L1, tuy nhiên các bị cáo không có yêu cầu phải trả nên chấp nhận yêu cầu của các bị cáo, không đặt ra giải quyết. 

[4] Về xử lý vật chứng: Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã quản lý 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 12 màu tím (kèm sim số 0966628681) thu của Vũ Thành L; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu xanh rêu (kèm sim số 0906250965) thu của Vũ Hồng L1, Hội đồng xét xử xác định là công cụ phương tiện phạm tội, cần tịch thu sung công quỹ Nhà nước. 

[5] Trong vụ án này có bà Lê Thị Th, sinh năm 1964, trú tại tổ dân phố HT, thị trấn T1, huyện T1 là người đã cho L mượn tài khoản mở tại Ngân hàng HD bank để 02 người vay là Phạm Văn L, Đỗ Lâm Th chuyển tiền trả lãi cho L (02 lần). Tài liệu điều tra thể hiện khi mượn tài khoản, L chỉ nói với bà Thủy là để bạn chuyển tiền đến cho L, bà Th không biết việc L cho vay lãi nặngcũng không được hưởng lợi gì, do đó không có cơ sở xử lý đối với bà Lê Thị Th. 

[6] Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. 

Vì các lẽ trên,

_Xem toàn bộ văn bản>>>>Bản án số 61 ngày 28/07/2023

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét