NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận
định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, Điều tra
viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tây Sơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên
tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về
hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về tội danh và Điều luật áp dụng:
[2.1] Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như bản cáo trạng đã nêu, lời khai của bị cáo phù hợp với lời
khai tại cơ quan điều tra, kết luận giám định
và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ, thể hiện:
- Cà Văn V là công nhân Công ty TNHH S, địa chỉ: cụm C thuộc thôn T, xã T huyện T, tỉnh Bình Định do ông Giang Triều V1 là Giám đốc. V được giao nhiệm vụ lái xe nâng để nâng đỡ hàng nhưng chưa được đào tạo, huấn luyện và cấp chứng chỉ vận hành lái xe nâng theo quy định.
- Khoảng 10 giờ 45 phút ngày 02/08/2023, V điều khiển xe nâng hiệu Heli, trọng tải 3 tấn bốc dỡ hàng từ xe ô tô đầu kéo 43C – 10195 kéo sơmirơmoc 43R -01563 do anh Lê Quốc T2 ở phường H, quận C, thành phố Đà Nẵng điều khiển đến nhưng không thực hiện các biện pháp bảo đảm an toàn như: rào chắn, biển cảnh báo, bố trí người canh gác cho người khác biết, không chú ý quan sát xung quanh, cho xe nâng rút kiện hàng cùng một lúc hai kiện hàng nên kiện hàng trên cùng đã lăn rơi trúng người của ông Nguyễn Văn L là nhân viên bảo vệ của công ty gây hậu quả nghiêm trọng làm ông L chết (suy tuần hoàn do chảy máu ổ bụng, sốc tủy/ chấn thương cột sống) là lỗi vô ý do cẩu thả.
- Vì vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Cà Văn V phạm tội “Vô ý làm chết người” được quy định tại khoản 1 Điều 128 của Bộ luật hình sự như bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tây Sơn truy tố bị cáo là có căn cứ.
[3] Xét tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội của bị Hành vi của bị cáo Cà Văn V là nguy hiểm cho xã hội, không những trực tiếp xâm phạm đến tính mạng của người khác một cách trái pháp luật mà còn gây mất an ninh trật tự ở địa phương. Bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, thực
hiện hành vi phạm tội với lỗi vô ý, xem thường sức khỏe, tính mạng của người khác,
xem thường pháp luật. Do đó, cần xử phạt bị cáo một mức án của khung hình phạt cũng
đủ tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
[4] Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:
[4.1] Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt.
[4.2] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: không có.
[4.3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
- Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Cà Văn V thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội; đã khắc phục một phần hậu quả, bồi thường cho gia đình bị hại số tiền là 10.000.000đ; tại phiên tòa đại diện hợp pháp cho bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo được hưởng án treo; bị cáo phạm tội lần đầu, phía bị hại cũng có một phần lỗi tự ý vào khu vực nguy hiểm; bị cáo là người đồng bào dân tộc thiểu số, nhận thức pháp luật còn hạn chế. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.
Xét thấy, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự và không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; có
nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng, phạm tội lần đầu, có khả năng tự cải tạo nên
không cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội, mà áp dụng Điều 65 của Bộ luật
hình sự cho bị cáo được hưởng án treo, thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật như
đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa cũng đủ tác dụng
giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
[5] Về phần trách nhiệm dân sự và bồi thường thiệt hại: Tại phiên tòa, Đại diện hợp pháp cho bị hại Nguyễn Văn L là bà Đỗ Thị H (vợ của ông L) yêu cầu bồi thường thiệt hại các khoản sau:
- Chi phí mai táng: 33.000.000₫, tiền tổn thất tinh thần: 234.000.000₫. Tổng cộng: 267.000.000₫ (hai trăm sáu mươi bảy triệu đồng), trừ đi số tiền bồi thường trước của bị cáo Cà Văn V là 10.000.000₫ và Công ty TNHH S là 20.000.000đ.
- Đối với tiền cấp dưỡng cho con Nguyễn Thị Mỹ T4 bị khuyết tật thì bà Đỗ Thị H xin rút yêu cầu, không yêu cầu bị cáo V và Công ty TNHH S phải cấp dưỡng.
- Bị cáo Cà Văn V và Công ty TNHH S thỏa thuận, thống nhất bồi thường theo yêu cầu của bà Đỗ Thị H, cụ thể: Công ty TNHH S (Đại diện theo pháp luật: ông Giang Triều V1) đồng ý bồi thường tiếp về thiệt hại tính mạng bị xâm phạm cho ông Nguyễn Văn L với số tiền là 237.000.000₫ (hai trăm ba mươi bảy triệu đồng).
Công nhận sự tự nguyện thỏa thuận giữa bị cáo Cà Văn V, Bị đơn dân sự Công ty TNHH S (Đại diện theo pháp luật: ông Giang Triều V1) cùng với đại diện hợp
pháp cho người bị hại Nguyễn Văn L là bà Đỗ Thị H (vợ ông L) phải tiếp tục bồi thường
về thiệt hại tính mạng bị xâm phạm cho ông Nguyễn Văn L số tiền là 237.000.000₫
(hai trăm ba mươi bảy triệu đồng), ngoài số tiền đã bồi thường trước 30.000.000 đồng (Trong đó: Bị cáo V: 10.00.000đ; Công ty TNHH S: 20.000.000đ) là xong. Buộc Công ty TNHH S có nghĩa vụ bồi thường số tiền là 237.000.000₫ (hai trăm ba mươi bảy triệu đồng)
- (Đại diện hợp pháp cho người bị hại Nguyễn Văn L là bà Đỗ Thị
H vợ của ông Nguyễn Văn L nhận số tiền này). Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền
còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật
dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
[6] Về án phí: Căn cứ Điều 135, Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a, c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, nộp, quản lý và sử dụng án phí và
lệ phí Tòa án, bị cáo Cà Văn V phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình
sự sơ thẩm;
- Về án phí dân sự sơ thẩm: Công ty TNHH S phải nộp: 237.000.000đ x 5% = 11.850.000đ (mười một triệu tám trăm năm mươi nghìn đồng).
[7] Đối với anh Giang Triều V1, là Giám đốc Công ty S, có hành vi phân công anh Cà Văn V vận hành xe nâng trong khi anh V chưa được huấn luyện, cấp chứng chỉ về an toàn lao động, vệ sinh lao động và cấp chứng chỉ vận hành xe nâng
theo quy định là vi phạm hành chính nên ngày 14/11/2023, Thanh tra Sở Lao động - Thương binh và xã hội tỉnh B đã xử phạt hành chính số tiền 15.000.000 đồng.
[8] Bà Đỗ Thị H đã nộp đơn khởi kiện Tranh chấp bồi thường thiệt hại do tai nạn lao động đối với Công ty Cổ phần D và Tòa án nhân dân thành phố Quy Nhơn đã tiến hành thụ lý vụ án vào ngày 14/11/2024. Đây là vụ án tranh chấp lao động
thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Quy Nhơn nên không xem xét trong vụ án này.
Vì các lẽ trên,
_Xem toàn bộ văn bản>>>>【Bản án số 14 ngày 11/02/2025】
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét