NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
- Khoảng 15 giờ 30 phút ngày 13-02-2024, Nguyễn Văn N nhớ lại việc anh Đặng Thành Đ nói chị Nguyễn Thị Tường V (chị V là người sống như vợ chồng với N) nghe việc N chơi đánh bạc thua hết tiền, nên N lấy dao bấm bằng kim loại dài 34cm trên kệ bếp trong nhà chị V giấu trong lưng quần rồi chạy đến quán C thuộc ấp P, xã P, huyện G, tỉnh Tây Ninh tìm đánh anh Đ. Khi đến trước quán C, N la lớn “thằng Được đâu” và đi vào trong quán thấy anh Đ đang ngồi trên võng, thì N và anh Đ cự cải nhau; N dùng tay trái đánh trúng mặt anh Đ 02 cái; anh Đ lấy dao dùng chặt dừa trong quán cầm trên tay; N lấy dao giấu trong lưng quần, bật lưỡi dao ra, cầm dao trên tay trái đến giằng co và đẩy anh Đ ngã ngửa, thì dao trên tay anh Đ quơ trúng tay trái N gây thương tích; Nam khom người dùng dao đâm nhiều nhát từ trên xuống trúng vào mắt, môi, cằm, cổ, tay, chân anh Đ gây thương tích. Lúc này, chị Tô Hồng N1 (vợ anh Đ), đứng phía sau nắm vạt áo của N kéo ra để can ngăn thì N quay người lại cầm dao đâm từ trái qua phải trúng ngực chị N1 gây thương tích. Anh Đ và chị N1 được mọi người đưa đến Bệnh viện Đ1 cấp cứu, điều trị đến ngày 21-02-2024 chị N1 ra viện, còn anh Đ chuyển đến Bệnh viện Chợ Rẫy Thành phố H điều trị đến ngày 21-02-2024 tử vong. Riêng N cầm dao đến Công an đầu thú.
* Kết luận
giám định pháp y về tử thi số 141/KLGĐTT-2024 ngày 19-3- 2024 của Trung tâm pháp y - Sở y tế
Thành phố H, kết luận: nguyên nhân Đặng Thành Đ chết do suy tuần hoàn hô hấp do đa chấn thương, vì bị
thủng nhãn cầu trái; vết thương đứt
da, cơ cẳng tay phải gây đứt động mạch, tĩnh mạch tay phải.
* Kết luận
giám định số 1496/KL-KTHS ngày 16-4-2024 và số 1623/KL- KTHS ngày 26-4-2024 của Phân viện
KHHS Bộ C1 tại Thành phố Hồ Chí Minh, kết luận: trên con dao kim loại dài 34cm có dính máu người, phân
tích ADN trên con dao
này, trùng với ADN của tử thi Đặng Thành Đ và bị hại Tô Hồng N1. Không phân tích được ADN từ dấu vết
trên con dao dài 32cm.
* Kết luận giám định tổn thương cơ thể trên người sống số 277/KLTTCT- PVPYQG ngày 20-9-2024 của Phân Viện pháp y tại Thành phố Hồ Chí Minh, xác định 01 sẹo kích thước lớn vùng ngực, kết luận tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của Tô Hồng N1 tại thời điểm giám định là 03%. Thương tích là do vật sắc nhọn tác động trực tiếp theo chiều từ trái qua phải, từ trước ra sau. Qua điều tra, N thừa nhận hành vi phạm tội.
* Kết quả
thu giữ vật chứng: có bảng thống kê kèm theo.
* Về bồi thường
thiệt hại: Ông Đặng Thành L là đại diện gia đình anh Đặng Thành Đ yêu cầu bồi thường
291.474.646 đồng, gia đình bị can N đã bồi thường 210.000.000 đồng; ông L đã làm đơn xin bãi nại. Chị Tô
Hồng N1 yêu cầu bồi thường
100.000.000 đồng, gia đình bị can N đã bồi thường 50.000.000 đồng.
Tại Bản Cáo
trạng số 56/CT-VKS-P2 ngày 31 tháng 10 năm 2024 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh đã
truy tố bị cáo: Nguyễn Văn N về tội “Giết người” theo quy định tại điểm a, n khoản 1 Điều 123 của Bộ luật
Hình sự.
Trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh trình bày:
- Hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Văn N đủ yếu tố cấu thành tội “Giết người” theo quy định tại Điều 123 của Bộ luật Hình sự, với tình tiết định khung hình phạt “Giết 02 người trở lên” và “Có tính chất côn đồ” theo quy định tại điểm a, n khoản 1 Điều 123 của Bộ luật Hình sự.
- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: bị cáo N phạm tội đối với chị N1 là phụ nữ đang có thai, nên áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo theo điểm i khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.
- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: bị cáo N thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo đã tác động gia đình bồi thường cho ông L là người đại diện hợp pháp bị hại Được số tiền 210.000.000 đồng và ông L đã làm đơn xin bãi nại; bồi thường cho chị Tô Hồng N1 số tiền 50.000.000 đồng; bị cáo N đã ra đầu thú; nên áp dụng tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo theo điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
- Đề nghị Hội
đồng xét xử áp dụng điểm a, n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2, Điều 51; điểm i khoản
1 Điều 52; Điều 39 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn N tù chung thân.
- Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo bồi thường cho người bị hại theo quy định của pháp luật.
Luật sư Lê Việt Hoàng N2 là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại N1 và ông L là người đại diện hợp pháp cho bị hại Được trình bày:
- Thống nhất với ý kiến của Kiểm sát viên. Đề nghị Hội đồng xét xử, xử phạt bị cáo N2 với mức án nghiêm nhằm đảm bảo tính giáo dục bị cáo.
- Buộc bị cáo N2 bồi thường cho bị hại N1 và người đại
diện hợp pháp cho bị hại Được theo yêu cầu của chị N1 và ông L trình bày.
Luật sư Nguyễn Lâm Q người bào chữa chỉ định cho bị cáo Nguyễn Văn N trình bày:
- Thống nhất với bản cáo trạng đã truy tố bị cáo N. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo N có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự như: Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo ra đầu thú; bị hại Được có phần lỗi; bị cáo đã tác động gia đình bồi thường cho bị hại và đại diện hợp pháp bị hại Được đã có đơn xin bãi nại cho bị cáo, để xem xét cho bị cáo được hưởng mức hình phạt tù có thời hạn cũng đảm bảo tính giáo dục bị cáo.
- Việc truy tố bị cáo với tình tiết định khung hình phạt “Có tính chất côn đồ” theo quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 của Bộ luật Hình sự là chưa thoả đáng, vì bị hại Được có phần lỗi đối với bị cáo.
Tại phiên
tòa, bị cáo N thừa nhận hành vi phạm tội nhưng bị cáo N cho rằng chỉ quơ dao lỡ trúng bị hại N1.
Lời nói sau cùng của bị cáo N: xin lỗi bị hại và xin được hưởng mức án thấp nhất.
_Xem toàn bộ văn bản>>>>【Bản án số 05/2025/HSST ngày 20/01/2025】
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét