【Bản án số 64 ngày 21/06/2024】NỘI DUNG VỤ ÁN:

NỘI DUNG VỤ ÁN:

1. Theo hồ sơ vụ án và theo diễn biến tại phiên tòa thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

  • Vào lúc 21 giờ 20 phút, ngày 15/11/2023 tại phòng trọ số A, nhà số A H phường B, thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Đội CSĐTTP về ma túy Công an thành phố V phối hợp Công an phường B2, thành phố V bắt quả tang Huỳnh Thị Kim H2hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nhằm mục đích bán cho người khác. Vật chứng thu giữ gồm: 01 gói nylon, bên trong có chứa 17 viên nén màu xám01 viên nén màu vàng (H2 khai nhận là ma túy tổng hợp dạng thuốc lắc của H2 và Phạm Trường H1); 01 điện thoại di động, hiệu LG, màu đen. 
  • Tiếp đó, đến 23 giờ 50 phút ngày 15/11/2023 Đội CSĐTTP về Ma túy phối hợp Công an phường B2, thành phố V phát hiện bắt quả tang Phạm Trường H1 có hành vi mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ gồm: 03 gói nylon hàn kín bên trong có chứa chất tinh thể không màu trong suốt (H1 khai nhận là ma túy loại đá); 01 điện thoại di động hiệu S2, màu trắng.
  • Mở rộng điều tra: Vào lúc 10 giờ 35 phút ngày 16/11/2023, Cơ quan CSĐT đã ra Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Võ Phạm Anh K2 Lệnh khám xét khẩn cấp chỗ ở đối với K2 tại tổ E, KP H, phường L, thành phố B, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu tạm giữ vật chứng gồm: 02 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá, 02 nó thủy tinh, 01 cân điện tử, 01 điện thoại di động.
  • Vào lúc 18 giờ 15 phút và 18 giờ 55 phút ngày 16/11/2023 Cơ quan CSDT Công an thành phố V đã ra Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Hồ Thị T1Lê Quốc V tại khu vực trước khách sạn T9, địa chỉ: A đường số A, phường B, quận B, TP .. Vật chứng thu giữ gồm: 51 viên nén màu xám, 08 viên nén màu đỏ, 12 viên nén màu xanh nhạt, 02 viên nén màu vàng, 03 điện thoại di động (01 điện thoại hiệu Samsung, màu nâu vàng số Imel: 357712080951972; 01 điện thoại di động, hiệu Redmi, màu đen số Imel: 867204047620398; 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen).
  • Vào lúc 23 giờ 00 phút ngày 16/11/2023 Cơ quan CSĐT Công an T đã ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp Mai Tiến D (sinh năm 1991; Nơi thường trú: 85, đường A, KP A, phường B, quận B, TP .). Vật chứng thu giữ gồm: 01 gói nylon chứa chất kết tinh không màu-trong suốt, 03 gói nylon chứa chất rắn màu trắng, 01 gói nylon chứa 03 viên nén màu xanh, 01 gói nylon chứa chất bột màu xám, 01 điện thoại di động hiệu Oppo. Tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của D tại địa chỉ: B tổ L xã V, huyện B,TP Hồ Chí Minh, thu giữ vật chứng gồm: 

    • 213 viên nén các loại có màu sắc khác nhau (D khai nhận là ma túy của D),
    • 01 gói thảo mộc khô, 01 chai nhựa chứa dung dịch chất lỏng
    • 01 túi zip bên trong chứa chất bột màu vàng
    • 05 gói nylon chứa chất bột các màu (hồng, xanh, trắng, nho, đen), 
    • 01 gói nylon chứa chất bột màu trắng, đóng vón thành cục
    • 10 máy các loại (máy dập, 02 máy xay bột, máy quạt nóng, 02 máy khoan, 02 máy mài, máy mô tơ, máy thổi bụi); 
    • 04 khay các loại, 
    • 02 chảo kim loại, 
    • 01 chân đế máy, 
    • 01 xô thiếc, 
    • 02 nồi kim loại, 
    • 02 đĩa nhựa, 
    • 01 bình gas mini, 
    • 01 chai thủy tinh không chứa gì, 
    • 02 cân tiểu ly, 
    • 22 khuôn kim loại, 
    • 22 ty khuôn kim loại.

*Quá trình điều tra các bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như sau:

- Mai Tiến D: 

    • Mai Tiến D bắt đầu sử dụng ma túy từ năm 2022. Sau đó, để có ma túy sử dụng và tiền tiêu xài D đã nảy sinh ý định mua ma túy về để sử dụng và bán kiếm lời. 
    • Ngày 13/11/2023 thông qua mạng xã hội facebook D đã liên hệ với tài khoản tên “Tú N2” để hỏi mua 01 gói ma túy đá, 04 gói ma túy khay, 03 viên thuốc lắc thì được người này đồng ý bán cho D với giá là 11.000.000đ. Sau khi thỏa thuận với “Tú N2” xong thì S1 mang số ma túy như đã nêu trên đến giao cho D tại nơi ở của D thuộc địa chỉ B tổ liên ấp A xã V, huyện B, TP Hồ Chí Minh, khi nhận ma túy D đã trả số tiền 11.000.000 đồng như đã thỏa thuận trước đó. Sau khi mua được ma túy, D cất giấu tại nơi ở của mình, đến tối ngày 16/11/2023 D mang toàn bộ số ma túy nêu trên đến nhà bạn gái của D là Nguyễn Ngọc B1 Tuyền địa chỉ số C đường số B, khu phố E, phường B, quận B, TP Hồ Chí Minh. Khi D đi đến trước cửa nhà của T6 thì bị Đội CSĐT TP về ma túy Công an T phát hiện và thu giữ toàn bộ số ma túy D mang theo. Ngoài ra, do muốn tự sản xuất ma túy để bán kiếm lời nên D đã lên mạng xã hội để tìm hiểu máy dập viên néncác nguyên liệu là tiền chất để sản xuất ra ma túy. Cụ thể: ngày 07/11/2023, thông qua mạng xã hội D đã tìm hiểu máy dập viên nénđặt mua về với giá 10.000.000đ, D nghiên cứu rồi mua kim loại sắt về tự làm thành những khuôn nhỏ khoảng hơn 20 cái, rồi mang ra các tiệm quảng cáo (không nhớ tên và địa chỉ) thuê khắc CNC thành các hình: hình tròn, tam giác, tứ giác, mặt đầu lâu và nhiều hình các loại để tạo hình các viên ma túy khi dập viên nén. Ngày 09/11/2023 D đến chợ K3 và địa chỉ A đường L, TP Hồ Chí Minh để mua các nguyên liệu là tiền chất để sản xuất ma túy gồm: 01 gói thảo mộc khô, 01 chai nhựa chứa dung dịch chất lỏng, 01 túi zip bên trong chứa chất bột màu vàng, 01 gói nylon chứa chất bột màu hồng, 01 gói nylon chứa chất bột màu xanh, 01 gói nylon chứa chất bột màu trắng, 01 gói nylon chứa chất bột màu nho, 01 gói nylon chứa chất bột màu đen, 01 gói nylon chứa chất bột màu trắng vón cục với tổng số tiền là 1.800.000 đồng để làm nguyên liệu sản xuất ma túy. D mang các nguyên liệu nêu trên về nơi ở tại nhà số B đường L, xã V, huyện B, TP . cất giấu. D đã thực hiện việc sản xuất ma túy tại nơi ở của mình như sau: D sử dụng các loại chất bột nêu trêncác vật dụng: 01 máy dập bằng kim loại, 01 máy xay bột bằng kim loại, 01 máy xay bột bằng nhựa. 01 máy quạt nóng, 01 khay lọc bột kim loại, 01 chân đế máy, 01 khay kim loại đựng bột, 01 xô thiếc, 02 nồi kim loại, 02 đĩa nhựa, 01 bình gas mini khò, 01 chảo nung kim loại, 01 chảo ray kim loại, 01 chai thủy tinh, 01 khay đế kim loại, 01 khay màu đỏ, 02 cân tiểu ly, 01 máy thổi bụi màu đỏ, 01 máy khoan màu nâu, 01 máy khoan tay màu đỏ, 01 máy mài, 01 máy mài màu xanh xám, 01 máy mô tơ kim loại màu xanh, 22 khuôn kim loại, 22 ty khuôn để trộn đều các chất bột rồi bỏ vào máy xay nhuyễn sau đó đổ vào các khuôn kim loại hình dạng khác nhau và cho vào máy dập, để làm ra các viên ma túy tổng hợp. Như vậy, D đã sản xuất được tổng cộng 304 viên nén hình dạng, màu sắc khác nhau với mục đích để bán lại kiếm lời, D dự định bán mỗi viên với giá từ 10.000 đồng đến 20.000 đồng. Khi sản xuất được 304 viên ma túy thì D đã cho Lê Quốc V 02 lần, tổng cộng 91 viên, cụ thể:

      • Lần thứ nhất, sáng ngày 13/11/2023 tại khu vực ngoài phòng trọ số 03 thuộc địa chỉ 3 đường số B, phường B, quận T, TP . Dũng đưa cho Lê Quốc V 18 viên nén.
      • Lần thứ 2, chiều ngày 15/11/2023 tại nơi ở của D, D đưa cho V 73 viên nén, trong đó có 51 viên màu xám, 08 viên màu đỏ, 12 viên màu xanh nhạt02 viên màu vàng. Cả hai lần D cho V các viên ma túy nêu trên là do Lê Quốc V đến xin tiền D nhưng D không có tiền nên đã cho V các viên ma túy. Khi được D cho ma túy, V đã mang về phòng trọ cùng Hồ Thị T1 cất giấu với mục đích để bán lấy tiền phục vụ sinh hoạt hàng ngày. Còn lại 213 viên ma túy D cất giữ tại nơi ở của D với mục đích để bán cho người khác. Qua kiểm tra điện thoại của D, thể hiện việc D đã kết nối với một số đối tượng qua mạng xã hội Facebook có tên tài khoản là “Ngân”, “Đồng Phê”, “T7”, “L3” để gửi hình ảnh các chất bột và viên nén do D sản xuất sau đó trao đổi về việc mua bán ma túy. Tuy nhiên, D và các tài khoản Facebook nêu trên chưa thực hiện được giao dịch mua bán nào thì D đã bị Cơ quan Công an phát hiện bắt quả tang.

- Lê Quốc V, Hồ Thị T1 khai nhận: Lê Quốc VHồ Thị T1 có mối quan hệ tình cảm và chung sống với nhau như vợ chồng. Từ tháng 11/2023, V về ở cùng T1 tại phòng trọ số 03 nhà số C đường số B, phường B, quận B, TP .. Để có tiền trang trải cuộc sống nên khi được Mai Tiến D cho ma túy thì V và T1 bàn bạc với nhau sẽ bán số ma túy này để lấy tiền. Cụ thể như sau : 

    • Vào sáng ngày 13/11/2023 V gặp Mai Tiến D tại khu vực ngoài phòng trọ số 03 thuộc địa chỉ nêu trên. Tại đây V nói với D là V không còn tiền, V xin tiền D nhưng D không có tiền cho V mà D cho V một số viên thuốc lắc đựng bên trong vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Jet, Vĩnh nhận và mở ra xem nhưng không đếm số lượng bao nhiêu. Sau đó, V mang về phòng trọ của V và T1 cất giấu, T1 mở vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Jet và đếm được 18 viên nén trong đó có 17 viên ma túy màu xám 01 viên ma túy màu vàng, T1 nói cho V biết 18 viên nén là ma túy dạng thuốc. 
    • Thiêu và V bàn bạc, thống nhất cất giấu ma túy và tìm người mua để bán với giá 50.000 đồng/01 viên ma túy để lấy tiền sinh hoạt ăn uống hàng ngày. Vào ngày 13/11/2023, một người đàn ông tên Đ (Phạm Trường H1) liên hệ với T1 để hỏi đặt mua 50 con kẹo (50 viên ma túy tổng hợp dạng thuốc lắc) Thiêu đồng ý bán với giá là 50.000đ/01viên thuốc lắc và hẹn T1 sẽ mang theo ma túy đến TP. Bà Rịa để giao cho H1. Khoảng 21 giờ 00 ngày 13/11/2023, Thiêu từ TP . đến TP . để gặp H1 và được Hồ thuê nhà nghỉ cho T1 ở. Khoảng 10 giờ ngày 14/11/2023, khi H1 đang ở nhà một người bạn tại TP B thì T1 đến, tại đây T1 đã đưa H1 một gói ma túy có 18 viên thuốc lắc H1 đồng ý mua với giá tiền là 3.500.000đ. Việc mua bán ma túy giữa T1 và H1 có sự chứng kiến của H2 là bạn gái của H1. H1 đã trả cho T1 được 2.100.000đ, cụ thể: H2 là người trực tiếp chuyển khoản đến tài khoản ví M cho Lê Quốc V (bạn trai T1) số tiền 1.000.000đ, H2 đưa cho T1 tiền mặt 100.000đ, H1 trực tiếp đưa cho T1 1.000.000đ. Còn lại 1.400.000₫ H1 nói với T1 cho H1 nợ khoảng 02 ngày nữa H1 sẽ chuyển khoản trả sau. 
    • Sau khi H2 chuyển khoản cho V, T1 có điện thoại cho V và được V xác nhận đã có số tiền 1.000.000 đồng vào tài khoản số 19070057659016 của Ngân hàng T10. Qua điện thoại, V hỏi T1 số ma tuý đó bán được bao nhiêu tiền, T1 trả lời bán được 3.500.000 đồng trong đó có 1.000.000 đồng đã chuyển cho VSau khi bán ma túy cho H1 xong thì T1 trở lại TP .. 
    • Tiếp đó, chiều ngày 15/11/2023, V gặp D khu vực phòng trọ số 03, địa chỉ 3 đường số B, phường B, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh Vĩnh tiếp tục xin tiền D, D nói không có tiền và D cho V 73 viên thuốc lắc trong đó có 51 viên màu xám, 08 viên màu đỏ, 12 viên màu xanh nhạt02 viên màu vàng, V biết là D không cho tiền nhưng cho ma túy để V đi bán lấy tiền. Vĩnh mang số ma túy trên về phòng trọ và để trên bàn trang điểm của T1 để T1 cất giấu khi nào có người hỏi mua thì bán, V có nói với T1 là ma túy của D cho. 
    • Vào chiều ngày 16/11/2023, khi V và T1 ở khách sạn tại Quận B, TP Hồ Chí Minh thì T1 thì có người liên hệ với T1 hỏi mua ma túy nên T1 nói với V về phòng trọ số 03 lấy toàn bộ số ma túy được D cho mang tới khách sạn đưa cho T1 để T1 và V đi bán. V đồng ý và đi về phòng trọ lấy 73 viên ma túy mang đến đưa cho T1, T1 lấy ma túy bỏ vào trong giỏ của T1. Đến khoảng 17 giờ 30 phút cùng ngày, khi V cùng T1 mang số ma túy nêu trên để đi bán nhưng khi mới ra đến trước khu vực khách sạn T9, địa chỉ A đường số A, phường B, quận B,TP Hồ Chí Minh thì bị Cơ quan Công an bắt quả tang và thu giữ 73 viên thuốc lắc trong túi xách của T1, đây là ma túy của V và T1 mục đích để bán lại lấy tiền sử dụng nhưng chưa kịp bán.

- Phạm Trường H1 và Huỳnh Thị Kim H2, Võ Phạm Anh K2.

    • Đối với việc Phạm Trường H1 Huỳnh Kim H2 mua 18 viên ma túy dạng thuốc lắc của Hồ Thị T1 với mục đích để bán kiếm lời: Phạm Trường H1 và Huỳnh Thị Kim H2 có mối quan hệ tình cảm với nhau. Cả hai đều không có việc làm và là đối tượng sử dụng chất ma túy, H2 lại đang nuôi con nhỏ với người chồng trước nên cuộc sống gặp nhiều khó khăn. Do đó, H1 với H2 đã bàn bạc với nhau về việc mua ma túy để bán lại cho người khác kiếm lời. Vào ngày 13/11/2023, Hồ Thị T1 có liên hệ cho H1 để nhờ H1 kiếm mối mua ma túy tổng hợp dạng thuốc lắc và nói sẽ để giá rẻ, H1 thống nhất với Huỳnh Thị Kim H2 là mua ma túy của T1 về để bán lại kiếm lời nên H1 đã đồng ý mua 50 viên ma túy thuốc lắc của T1. Sau đó T1 đi từ TP Hồ Chí Minh xuống TP B gặp H1. Khoảng 10 giờ ngày 14/11/2023 T1 có đến nhà K2 chơi, có H1 và H2 ở đó. Lúc này, T1 lấy một gói nylon đựng 18 viên ma túy thuốc lắc từ trong túi xách ra để bán cho H1 và H2 với giá 3.500.000đ. Khi nhận ma túy, Hồng đếm được 18 viên trong đó có 17 viên màu xám01 viên màu vàng. Hận trả trước cho T1 số tiền 1.000.000đ tiền mặt và H2 đưa cho T1 100.000 đồng. Khoảng 22 giờ cùng ngày, H1 đưa cho H2 1.600.000₫ nói H2 trả cho T1 thêm 1.000.000 đồng tiền mua ma túy, còn 600.000 đồng để mua đồ ănthuốc cho con của H2. Sau đó H2 đã chuyển tiền cho V là chồng của T1 1.000.000 đồng để trả tiền mua ma túy, sau khi chuyển xong H2 có nói cho H1 biết. H1 còn nợ T1 1.400.000₫ tiền mua 18 viên thuốc lắc của T1. 18 viên ma túy này H1 đưa cho H2 mang về cất giữ tại nơi ở của H2 phòng trọ số A, nhà số A H, phường B, thành phố V. H2 và H1 thống nhất sẽ bán lại số ma túy này để kiếm lời với giá 1 viên ma túy là 300.000 đồng nhưng chưa kịp bán thì bị Cơ quan Công an bắt quả tang.
    • Đối với việc Phạm Trường H1 và Võ Phạm A1 Khôi mua 03 gói ma túy đá với mục đích để sử dụng: Phạm Trương H4Võ Phạm Anh K2 có mối quan hệ bạn bè, cùng là đối tượng sử dụng ma túy đá, H4 thường đến nhà của K2 và K2 đã nhiều lần mua ma túy giúp Hận để sử dụng nhưng không nhớ cụ thể số lần, thời gian mua cho H4. Lần cuối, trước khi bị bắt K2 đã mua ma túy giúp H4, cụ thể: Vào lúc 21 giờ 50 ngày 15/11/2023 tại nhà của Võ Phạm Anh K2, H4 có nhờ K2 mua cho H4 nửa hộp ma túy đá với số tiền 1.700.000đ, K2 đồng ý. Sau đó, H4 sử dụng tài khoản Momo của H4 (không nhớ số tài khoản) để chuyển khoản qua tài khoản Momo cho K2 600.000₫ và đưa tiền mặt cho K2 700.000đ, H4 nợ lại 400,000đ. Sau khi H4 chuyển tiền, K2 sử dụng điện thoại của K2 liên hệ qua Zalo với một đối tượng nam thanh niên (không rõ nhân thân, lai lịch) là bạn quen ngoài xã hội của K2 để hỏi mua 1.700.000 ma túy dạng đá, người này đồng ý. Khoảng 15 phút sau, K2 đi ra ngoài gặp người thanh niên để nhận 01 gói ma túy và K2 đã trả 1.700.000 đồng cho người này bằng hình thức sử dụng dụng ví Momo và tiền mặt. Nhận ma túy xong, K2 mang vào nhà và đưa cho H4 một gói ma túy đá đồng thời K2 cũng xóa số tài khoảncác giao dịch với người thanh niên bán ma túy nêu trên. Khi nhận được ma túy, H4 lấy số ma túy này chia thành 03 gói ma túy nhỏ rồi bỏ vào trong gói thuốc giấu vào túi quần mà H4 đang mặc với mục đích để sử dụng dần. Đến 23 giờ 50 ngày 15/11/2023, khi H4 đi đến trước địa chỉ A H, phường B, TP V thì bị Cơ quan Công an phát hiện, bắt quả tang và thu giữ tang vật. Ngày 16/11/2023, Cơ quan Công an đã tiến hành giữ người trong trường hợp khẩn cấp và khám xét nơi ở đối với Võ Phạm Anh K2 về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Làm việc với Cơ quan điều tra Phạm Trường H1, Võ Phạm Anh K2 đã khai nhận toàn bộ sự việc như đã nêu trên.

Quá trình điều tra các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình, lời khai của các bị cáo phù hợp với nhau, phù hợp với diễn biến của vụ án.

* Kết luận giám định của Phân viện KHHS tại TP . Hồ Chí Minh:

- Bản kết luận giám định số: 7272/KL-KTHS-MT ngày 24/11/2023, kết luận số ma túy thu giữ tại nơi ở của Huỳnh Thị Kim H2:

    • 17 (mười bảy) viên nén màu xám, gửi giám định là ma túy, tổng khối lượng 8,1755 gam, ketamine.
    • 01 viên nén màu vàng, gửi giám định không tìm thấy các chất ma túy và tiền chất trong danh mục các chất ma túy và tiền chất của Nghị định 57/2022/NĐ- CP của Chính phủ ngày 25/8/2022, khối lượng 0,5862 gam.

-Bản Kết luận giám định số 7273/KL-KTHS ngày 24/11/2023, kết luận số ma túy thu giữ khi bắt quả tang đối với Phạm Trường H1: 03 (ba) gói nylon chứa chất kết tinh không màu trong suốt gửi giám định là ma túy, khối lượng: 1,6015 gam, loại Methamphetamine.

- Bản Kết luận giám định số: 7271/KL-KTHS ngày 29/11/2023, kết luận số ma túy thu giữ khi bắt giữ đối với Mai Tiến D:

    • 01 (một) gói nylon chứa chất màu trắng (ký hiệu M1) gửi giám định là ma túy, khối lượng: 0,8703 gam, loại Methamphetamine.
    • 03 (ba) gói nylon chứa chất màu trắng (ký hiệu M2) gửi giám định là ma túy, tổng khối lượng: 15,405 gam, loại Methamphetamine, Ketamine.
    • 01 (một) gói nylon chứa 03 viên nán màu xanh (ký hiệu M3) gửi giám định là ma túy, tổng khối lượng: 0,9247 gam, loại MDMA.
    • 01 (một) gói nylon chứa chất bột màu xám (ký hiệu M4) gửi giám định là ma túy, khối lượng: 1,2222 gam, loại, Ketamine.

- Bản Kết luận giám định số: 7269/KL-KTHS ngày 05/12/2023, kết luận số ma túy thu giữ khi bắt quả tang đối với Lê Quốc V và Hồ Thị T1 :

    • 51 (năm mươi mốt) viên nén màu xám (ký hiệu Mẫu M1) đựng trong một gói nylon gửi giám định có tổng khối lượng: 24,4096 gam, đều không tìm thấy thành phần các chất ma túy theo Nghị định 57/2022/NĐ-CP đề ngày 25 tháng 8 năm 2022 của Chính phủ.
    • 08 (tám) viên nén màu đỏ (ký hiệu Mẫu M2) đựng trong một gói nylon gửi giám định có tổng khối lượng: 4,3195 gam, đều không tìm thấy thành phần các chất ma túy theo Nghị định 57/2022/NĐ-CP đề ngày 25 tháng 8 năm 2022 của Chính phủ.
    • 12 (mười hai) viên nén màu xanh nhạt (ký hiệu Mẫu M3) đựng trong một gói nylon gửi giám định là ma túy, tổng khối lượng: 6,5826 gam, loại: Methamphetamine;
    • 02 (hai) viên nén màu vàng (ký hiệu Mẫu M4) đựng trong một gói nylon gửi giám định có tổng khối lượng: 1,1138 gam, đều không tìm thấy thành phần các chất ma túy theo Nghị định 57/2022/NĐ-CP đề ngày 25 tháng 8 năm 2022 của Chính phủ.

- Bản Kết luận giám định số: 7270/KL-KTHS ngày 15/12/2023, kết luận về số ma túy thu giữ tại nơi ở của Mai Tiến D :

Gói 1:

      • 01 (một) gói nylon chứa 195 viên nén màu xanh —ký hiệu Mẫu M1.1 được niêm phong gửi giám định là ma túy, loại: Methamphetamine, Ketamine; khối lượng: 110,09 gam.
      • 01 (một) gói nylon chứa 06 viên nén màu xám- ký hiệu Mẫu M1.3 được niêm phong gửi giám định là ma túy, loại: Methamphetamine, Ketamine; khối lượng: 7,11 gam.
      • 01 (một) gói nylon chứa 12 viên nén màu xanh- ký hiệu Mẫu M1.2 được niêm phong gửi giám định là ma túy, loại: Methamphetamine, Ketamine; khối lượng: 3,39 gam.

Gói 2:

      • 01 (một) gói nylon màu vàng chứa thảo mộc khô-ký hiệu mẫu M2 được niêm phong gửi giám định không tìm thấy thành phần các chất ma túytiền chất theo Nghị định 57/2022/NĐ-CP đề ngày 25 tháng 8 năm 2022 của Chính phủ, khối lượng: 52,72 gam. Mẫu có tìm thấy thành phần MDMB-INACAMDMB-BUTINACA thuộc nhóm cần sa tổng hợp chưa được đưa vào Danh mục các chất ma túy và tiền chất theo Nghị định 57/2022/NĐ-CP đề ngày 25 tháng 8 năm 2022 của Chính phủ.

Gói 3:

      • 01 (một) chai nhựa chứa chất lỏng – ký hiệu mẫu M3.1 được niêm phong gửi giám định là tiền chất, loại: Aceticacid; thể tích :470 ml, khối lượng: 488,8gam.
      • 01 (một) gói nylon chứa chất bột mịn màu vàng- ký hiệu mẫu M3.2 được niêm phong gửi giám định là ma túy, loại: Methamphetamine, Ketamine và MDMB-4en-PINACA; khối lượng: 1189,46 gam.
      • 01 (một) gói nylon chứa chất bột màu hồng- ký hiệu mẫu M3.3 được niêm phong gửi giám định là ma túy, loại: Ketamine; khối lượng: 842,52 gam.
      • 01 (một) gói nylon chứa chất bột màu xám- ký hiệu mẫu M3.4 được niêm phong gửi giám định là ma túy, loại: Methamphetamine, Ketamine và và MDMB- 4en-PINACA; khối lượng: 1930,2 gam (Mẫu còn chứa thành phần MDMB- INACA và MDMB-BUTINACA thuộc nhóm cần sa tổng hợp chưa được đưa và Danh mục các chất ma túy và tiền chất theo Nghị định 57/2022/NĐ-CP đề ngày 25 tháng 8 năm 2022 của Chính phủ).
      • 01 (một) gói nylon chứa chất bột màu trắng- ký hiệu mẫu M3.5 được niêm phong gửi giám định không tìm thấy thành phần các chất ma túy và tiền chất theo Nghị định 57/2022/NĐ-CP đề ngày 25 tháng 8 năm 2022 của Chính phủ, khối lượng: 282,32 gam.
      • 01 (một) gói nylon chứa chất màu trắng vón cục- ký hiệu Mẫu M3.6 được niêm phong gửi giám định là ma túy, loại: Methamphetamine, Ketamine; khối lượng: 74,19 gam.
      • 01 (một) gói nylon chứa chất bột màu đen- ký hiệu mẫu M3.7 được niêm phong gửi giám định được niêm phong gửi giám định không tìm thấy thành phần các chất ma túy và tiền chất theo Nghị định 57/2022/NĐ-CP đề ngày 25 tháng 8 năm 2022 của Chính phủ, khối lượng: 85,73 gam.
      • 01 (một) gói nylon chứa chất màu nâu xám- ký hiệu Mẫu M3.8 được niêm phong gửi giám định là ma túy, loại: MDMA, Diazepam; khối lượng: 267,42 gam

* Việc thu giữ, tạm giữ đồ vật, tài liệu và việc xử lý vật chứng:

    • 01 (một) thùng giấy niêm phong vụ số: 7270 ngày 18 tháng 12 năm 2023 của Phân viện khoa học hình sự Bộ C tại TP Hồ Chí Minh;
    • 02 (hai) phong bì niêm phong vụ số: 7271, 7269/C09B ngày 18 tháng 12 năm 2023 của Phân viện khoa học hình sự Bộ C tại TP Hồ Chí Minh;
    • 02 (hai) bộ dụng cụ sử dụng ma túy;
    • 02 (hai) nỏ thủy tinh, 01 (một) cân điện tử;
    • 07 điện thoại di động (01 điện thoại hiệu LG, màu đen; 01 điện thoại hiệu Oppo màu xanh đen; 01 điện thoại hiệu Samsung màu xanh; 01 điện thoại hiệu Samsung màu nâu vàng số Imel: 357712080951972; 01 điện thoại hiệu Samsung A12 màu trắng số Imel: 351162965118576; 01 điện thoại Redmi màu đen số Imel: 867204047620398; 01 điện thoại hiệu Nokia, màu đen)
    • 01 máy dập bằng kim loại; 01 máy xay bột bằng kim loại; 01 máy xay bột bằng nhựa; 01 máy quạt nóng; 01 khay lọc bột kim loại; 01 chân đế máy; 01 khay kim loại đựng bột; 01 xô thiếc; 02 nồi kim loại; 02 đĩa nhựa; 01 bình gas mini khò; 01 chảo nung kim loại; 01 chảo ray kim loại; 01 chai thủy tinh không chứa gì; 01 khay đế kim loại; 01 khay màu đỏ; 02 cân tiểu ly; 01 máy thổi bụi màu đỏ; 01 máy khoan màu nâu; 01 máy khoan tay màu đỏ; 01 máy mài; 01 máy mài màu xanh xám; 01 máy mô tơ kim loại màu xanh; 22 khuôn kim loại; 22 ty khuôn kim loại.

Số vật chứng nêu trên được Cơ quan Cảnh sát điều tra (PC04), Công an tỉnh B chuyển đến Cục thi hành án dân sự tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu bảo quản, chờ xử lý theo Bản án.

2. Tại Cáo trạng số 75/CT-VKSBRVT-P1 ngày 09 tháng 5 năm 2024, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu truy tố các bị cáo:

  • Mai Tiến D về các tội: “Sản xuất trái phép chất ma túy” “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại điểm đ khoản 4 Điều 248 điểm p khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự;
  • Phạm Trường H1 về các tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 và khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự
  • Lê Quốc V, Hồ Thị T1 về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự;
  • Huỳnh Thị Kim H2 về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự;
  • Võ Phạm Anh K2 về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự;

3. Tại phiên tòa: Trong bản luận tội vị đại diện Viện kiểm sát đã nêu các tình tiết vụ án, tính chất nguy hiêm trong hành vi phạm tội của các bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố:

3.1. Bị cáo Mai Tiến D phạm các tội “Sản xuất trái phép chất ma túy”“Mua bán trái phép chất ma túy”; 

    • Áp dụng: điểm đ khoản 4 Điều 248; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 39 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Mai Tiến D tù chung thân về tội “Sản xuất trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 16/11/2023. 
    • Áp dụng: điểm p khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Mai Tiến D từ 08 đến 10 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 16/11/2023. 
    • Áp dụng: Điều 55 Bộ luật Hình sự, tổng hợp hình phạt; buộc bị cáo Mai Tiến D chấp hành hình phạt chung là tù chung thân. Thời hạn tù tính từ ngày 16/11/2023.

3.2. Bị cáo Phạm Trường H1 phạm các tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. 

    • Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s, t khoản 1 Điều 51; điểm b khoản 1 Điều 52Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Phạm Trường H1 từ 03 đến 04 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 15/11/2023. 
    • Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s, t khoản 1 Điều 51; điểm b khoản 1 Điều 52Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Phạm Trường H1 từ 02 đến 03 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 15/11/2023. 
    • Áp dụng Điều 55 Bộ luật Hình sự, tổng hợp hình phạt; buộc bị cáo Phạm Trường H1 chấp hành hình phạt chung từ 05 đến 07 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 16/11/2023.

3.3. Bị cáo Lê Quốc V phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. 

    • Áp dụng điểm p khoản 2 Điều 251; điểm s, t khoản 1 Điều 51Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Lê Quốc V từ 07 đến 08 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 16/11/2023.

3.4. Bị cáo Hồ Thị T1 phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. 

    • Áp dụng điểm p khoản 2 Điều 251; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Hồ Thị T1 từ 07 đến 08 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 16/11/2023.

3.5. Bị cáo Huỳnh Thị Kim H2 phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. 

    • Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Huỳnh Thị Kim H2 từ 02 đến 03 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 15/11/2023.

3.6. Bị cáo Võ Phạm Anh K2 phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. 

    • Áp dụng: điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Võ Phạm A1 Khôi từ 05 đến 06 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 16/11/2023.


* Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự xử lý theo quy định của pháp luật. 

* Luật sư Trần Văn D1 phát biểu quan điểm bào chữa cho bị cáo Mai Tiến D

  • Về tội danh: Đồng ý với Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố.
  • Về hình phạt: Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối hận; tích cực khai báo giúp cơ quan điều tra làm rõ vụ án; hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn; bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu; gia đình có bố, bác tham gia cách mạng. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng thêm Điều 54 Bộ luật Hình sự giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. 
Các bị cáo không tranh luận và không bảo chữa bổ  sung. 

Trong lời nói sau cùng, các bị cáo thể hiện thái độ ăn năn hối cải, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

_Xem toàn bộ văn bản>>>>Bản án số 64 ngày 21/06/2024

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét