NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ
sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Quá trình sinh sống tại Thành
phố Hồ Chí Minh, Bùi Văn H4 quen biết với Nguyễn Thế H5, địa chỉ: Số A, ấp P,
xã P, huyện C, tỉnh Bến Tre, hai bên thường xuyên liên lạc với nhau. Trong thời
gian sinh sống tại đây, H4 biết việc trồng cây cần sa mang lại lợi nhuận cao,
khoảng cuối tháng 4-2021, Bùi Văn H4 từ Thành phố Hồ Chí Minh về huyện Đ, tỉnh
Đắk Nông tìm thuê đất với mục đích trồng cây cần sa, H4 thuê rẫy của anh Nguyễn
Văn Đ, địa chỉ: Thôn A, xã N, huyện Đ, với giá 72.000.000 đồng/năm. Để có người
phụ giúp, H4 liên lạc thuê Nguyễn Thế H5 lên Đ giúp H4 và nói với H5 trồng cây
thảo dược; Mức lương 10.000.000 đồng/tháng, H5 đồng ý. Khoảng cuối tháng
5/2021, H5 từ Thành phố Hồ Chí Minh lên huyện Đ và đến diện tích đất rẫy Huyên
thuê của anh Đ, H4 và H5 tiến hành dọn đất, chặt tre,.. để dựng chòi. Đến ngày
03/6/2021, H4 tiếp tục thuê Nguyễn Mạnh H6, địa chỉ: Tổ D, thị trấn Đ, huyện Đ
cùng làm với H5 và H4; Do biết H4 cần them người làm nên H6 gọi điện thoại rủ
Lê Thanh T3, địa chỉ: Số D đường N, Phường B, Quận D, Thành phố Hồ Chí Minh lên
Đ làm cho H4, tiền công 300.000 đồng/ngày. Cũng trong khoảng thời gian này, H4
thuê 01 căn nhà xây diện tích khoảng 100m2 của 01 người đàn ông (không nhớ tên,
tuổi, địa chỉ cụ thể) tại thị trấn Đ, huyện Đ (gần ngã ba B), với giá
1.500.000đồng/ tháng. Sau đó, thông qua mạng xã hội Facebook, Huyên mua 2.700 hạt
giống cần sa, với giá 30.000 đồng/hạt mang về căn nhà thuê để ươm trồng. Sau
khi hạt giống lên cây, ra rễ khoảng từ 10-15cm; Huyên thuê 01 xe ô tô tải, loại
2,5 tấn của một người đàn ông (không rõ nhân thân,lai lịch) tại thị trấn Đ, huyện
Đ (gần trụ sở Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Song) đến chở tất cả các cây giống
cần sa về đất rẫy thuê của anh Đ trồng xuống đất. Trước khi trồng, H4 nói với
H5 gặp Vũ Khắc C1, địa chỉ: Tổ B, thị trấn Đ, huyện Đ thuê xe càng của anh C1
chở phân chuồng, bột sỏi, xơ dừa mà H4 đã mua ở huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh đang
để ở căn nhà thuê về vườn rẫy của anh Đ. Lúc này, H5, H6 và T3 không biết các
cây giống này là cây cần sa. Ngày 04/6/2021, H4, H6, H5 và T3 tiếp tục thực hiện
các công việc dựng chòi rẫy, trộn phân chuồng, sơ dừa, bột sỏi vào đất chuẩn bị
cho việc trồng cây cần sa. Sau khi trộn xong đất, H4, H5 và H6 lấy các cây cần
sa được ươm trồng từ các ly nhựa màu trắng sang chậu nhựa màu đen to hơn rồi
cho thêm đất đã trộn vào. Trong lúc H5, H6, T3 và H4 đang làm thì H6 và H5 hỏi
H4 những cây giống đang trồng là cây gì thì H4 mới nói đó là cây cần sa; Lúc
này đã trồng được khoảng 1.000 cây. Ngày 09-6-2021, H6 và T3 tiếp tục đến làm
cho H4, chiều cùng ngày H4 trả cho H6 và T3 mỗi người 600.000 đồng. Sau thời
gian này, H6 và T3 nghỉ; Việc chăm sóc cây cần sa chỉ có H4 và H5. Sáng ngày
19/6/2021, H4 tiếp tục thuê H6 và T3 cùng 02 người dân tộc thiểu số (chưa rõ
nhân thân lai lịch) đi vào khu vực cựu chiến binh thuộc xã N, huyện Đ chặt lồ
ô, tre chẻ thành các thanh mang về mở rộng khung giàn trồng cây cần sa. Ngày
20/6/2021, khi cả nhóm đang trồng và chăm sóc cây cần sa thì lực lượng Công an
huyện Đ phát hiện, bắt quả tang và thu giữ toàn bộ số cây cần sa. Lúc này Nguyễn
Thế H5 và Bùi Văn H4 bỏ trốn; Nguyễn Mạnh H6 và Lê Thanh T3 bị bắt giữ và bị xử
lý. Khoảng tháng 9/2022, Bùi Văn H4 quay lại địa bàn huyện Đ và rủ Nguyễn Xuân
T cùng góp tiền, tìm đất tiếp tục trồng cây cần sa. Quá trình trao đổi, bàn bạc,
H4 nói với T chi phí cho việc mua hạt giống, dinh dưỡng, chăm sóc,... khoảng
2000 cây cần sa đến khi thu hoạch 300.000.000 đồng, mỗi người góp 150.000.000 đồng;
T đồng ý. Sau đó, T gọi Lâm Văn C và Nguyễn Duy L cùng với T trồng và chăm sóc
cây cần sa, C và L đồng ý; H4 thuê Bùi Văn T4 đến ăn, ở chăm sóc cây cần sa cho
H4. Sau khi thống nhất xong, H4 nói T chuyển cho H7 số tiền 5.000.000 đồng để
H4 đặt cọc mua hạt giống; T đồng ý và ngày 28/9/2022, T chuyển vào số tài khoản
2105205227420 của anh Vũ Văn H8, địa chỉ: Thôn D, xã L, huyện T, thành phố Hải
Phòng (Huyên nhờ số tài khoản của Hội để nhận tiền). Ngày 05/10/2022 và ngày
14/10/2022, T tiếp tục chuyển cho H4 tổng cộng số tiền 145.000.000 đồng vào số
tài khoản của Bùi Văn T4 5300205933086; T4 chuyển lại cho H4. Khoảng cuối tháng
10/2022, thông qua mạng xã hội H4 đặt mua 1.000 hạt giống cây cần sa; H4 và T
thống nhất mang về nhà kho của bố mẹ T tại thôn X, xã Đ, huyện Đ để ươm hạt
thành cây. Trong thời gian ươm 1.000 hạt giống này tại nhà kho, đến khoảng giữa
tháng 11/2022, H9 tiếp tục đặt mua 1.000 hạt giống, sau đó cũng tiến hành ươm tại
nhà kho của bố mẹ T. Thời gian ươm khoảng 10 ngày đến 15 ngày, lúc này cây ra rễ,
cao khoảng 10-15cm thì T4, C, H4 và L mang ra rẫy của ông Huỳnh Công T5 (đã bỏ
đi khỏi địa phương, gần sát rẫy của Lâm Văn C) tại thôn H, xã Đ, huyện Đ trồng
xuống đất. Quá trình chăm sóc, H4 tiếp tục chiết từ các cây này để mở rộng thêm
số lượng. Ngày 17/01/2023, khi H4 và T4 đang chăm sóc cây cần sa thì Công an
huyện Đ phát hiện, bắt quả tang, thu giữ toàn bộ số cây cần sa và các đồ vật
khác có liên quan. Bản kết luận giám định số 102/KLMT-PC09 ngày 28/6/2021 của
Phòng K1 Công an tỉnh Đ, kết luận:
- Số lượng 2.613 cây xanh, lá
hình mác nhọn, mép lá hình răng cưa được niêm phong trong 02 thùng xốp gửi giám
định đều là cây cần sa.
- Lá cây hình mác nhọn, mép lá
hình răng cưa đựng trong 01 bịch nilon màu trắng được niêm phong trong 01 thùng
catton gửi giám định đều là lá cây cần sa; có khối lượng mẫu là 1,9847kg; H10 lại
sau giám định có khối lượng 1,8367kg.
- H11, quả khô được niêm phong
trong 01 bì thư có viền xanh gửi giám định là hoa, quả cây cần sa; có khối lượng
mẫu là 4,7370gam; H10 lại sau giám định có khối lượng là 3,6162gam.
Bản kết luận giám định số
21/KL-KTHS ngày 21/01/2023 của Phòng K1 Công an tỉnh Đ, kết luận: 3.187 cây
xanh có thân, rễ, cành, lá hình mác nhọn, mép lá hình răng cưa được niêm phong
trong 10 thùng giấy catton được đánh số từ 01 đến 10 và 01 thùng xốp màu trắng
gửi giám định đều chứa chất ma túy, là cần sa.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số
14/2024/HS-ST ngày 29 tháng 3 năm 2024 Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông đã quyết định:
Tuyên bố: Các bị cáo Bùi Văn
H4, Nguyễn Xuân T, Lâm Văn C, Nguyễn Duy L và Bùi Văn T4 phạm tội “Trồng cây cần
sa”.
1/Áp dụng điểm b khoản 2 Điều
247; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật
Hình sự, xử phạt Bùi Văn H4 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành
hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 17/01/2023.
2/Áp dụng điểm b khoản 2 Điều
247; điểm s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51;Điều 54; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử
phạt Nguyễn Xuân T 02 (hai) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt
tù tính từ ngày bắt thi hành án. Được khấu trừ thời gian tạm giữ, tạm giam ngày
17/3/2023 đến ngày 13/11/2023.
3/Áp dụng điểm b khoản 2 Điều
247; điểm s, t khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử
phạt Lâm Văn C 01 (một) năm 09 (chín) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù
tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ
thời gian bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 07/4/2023 đến ngày 13/9/2023.
4/Áp dụng điểm b khoản 2 Điều
247; điểm s, t khoản 1 khoản 2 Điều 51; điểm h
khoản 1 Điều 52; Điều 54; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Nguyễn Duy L 02 (hai) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn
chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt
thi hành án, được trừ thời gian bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/8/2023 đến ngày 19/9/2023.
5/Áp dụng điểm b khoản 2 Điều
247; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ
luật Hình sự, xử phạt Bùi Văn T4 03 (ba) năm 09 (chín) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt
tạm giữ, tạm giam ngày 15/3/2023. Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về biện pháp
tư pháp, án phí, quyền kháng
cáo theo quy định pháp luật. Sau
khi xét xử sơ thẩm, ngày 08/4/2024 các bị cáo Nguyễn Xuân T, Lâm Văn C và Nguyễn Duy L kháng cáo xin giảm nhẹ
hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị
cáo Nguyễn Xuân T vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng
cáo, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm cho bị cáo một phần hình phạt; Các bị cáo Lâm Văn C và Nguyễn Duy L xin
xét xử vắng mặt.
Trong phần tranh luận:
Đại diện Viện kiểm sát nhân
dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham
gia phiên tòa phát biểu quan điểm giải quyết vụ án: Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo T thừa nhận
hành vi phạm tội; Các bị cáo C, L
xin xét xử vắng mặt. Tội danh và hình phạt mà bản án sơ thẩm đã xét xử các bị cáo là có căn cứ. Đối với chứng cứ bị
cáo T cung cấp tại cấp phúc thẩm về việc
bị cáo có phối hợp với cơ quan điều tra để phá án thì không được đưa vào nhận định trong bản án sơ thẩm, không có
xác nhận của cơ quan công an nên
chưa đủ căn cứ để xem xét. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của 03 bị cáo, giữ
nguyên bản án sơ thẩm. Người
bào chữa cho các bị cáo phát biểu: Luật sư đồng ý về tội danh mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử, nhưng xin Hội đồng
xét xử xem xét về hình phạt các bị
cáo vì: Các bị cáo có cung cấp tài liệu chứng minh những việc có ích cho xã hội của các bị cáo đã làm; Ngoài ra trong số
lượng cây cần sa đã trồng có 700 cây bị
cáo H4 trồng riêng ở Long An, sau đó vận chuyển về Đắk Nông, mà không có bàn bạc với các bị cáo còn lại, xin
xem xét số lượng theo hướng có lợi cho
các bị cáo. Mặc dù, đơn xác nhận của bị
cáo T cung cấp tại cấp phúc thẩm thể hiện bị cáo có
giúp ích cho cơ quan công an phá án vụ án ma túy, chỉ có chữ ký mà thiếu nội dung xác nhận của cơ quan công an là
lỗi khách quan, bị cáo sẽ bổ sung
khắc phục, xin Hội đồng xét xử xem xét công nhận chứng cứ mới này, và chấp nhận yêu cầu kháng cáo giảm nhẹ hình phạt
cho cả 03 bị cáo.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài
liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem
xét đầy đủ, toàn diện chứng
cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người
tham gia tố tụng khác,
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét