【Bản án số 61 ngày 28/07/2023】NỘI DUNG VỤ ÁN:

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: 

     Năm 2021, Vũ Thành L là công nhân tại công ty TNHH sứ HC có địa chỉ ở khu công nghiệp T1, xã DL, huyện T1, tỉnh T2. Trong quá trình làm việc tại công ty, L thấy nhiều công nhân có nhu cầu vay tiền để chi tiêu cá nhân nên đã nảy sinh ý định cho vay tiền và tính lãi suất nhằm thu lợi bất chính. Do không có tiền cho vay nên L về nhà bàn bạc với bố đẻ là Vũ Hồng L1 về việc cho vay tiền tính lãi để cùng nhau thu lợi bất chính. L và L1 thống nhất nếu ai có nhu cầu vay tiền thì L sẽ giới thiệu đến nhà gặp L1 để làm thủ tục vay tiền hoặc L trực tiếp lấy tiền của L1 để cho người khác vay và thỏa thuận với mức lãi suất cho vay từ 3.000 đồng/ đến 5.000 đồng/1 triệu/1 ngày, tương đương mức lãi suất từ 108% đến 180%/1 năm, gấp 5,4 đến 9 lần so với mức lãi suất cao nhất theo quy định của Bộ luật Dân sự; quy định tính lãi một tháng là 30 ngày (không tính tháng 28, 30 hay 31 ngày), người vay phải trả lãi đúng vào ngày vay của tháng tiếp theo. Hằng tháng, L đứng ra theo dõi và đôn đốc người vay trả tiền lãi theo thỏa thuận bằng hình thức thu tiền mặt trực tiếp rồi đưa lại cho L1 hoặc cung cấp số tài khoản ngân hàng BIDV, số 47110000498088 của Vũ Hồng L1 hoặc số tài khoản 999991000080164 tại ngân hàng HDbank của Lê Thị Th, sinh năm 1964 (là mẹ đẻ cùng sinh sống với L) và yêu cầu người vay chuyển khoản tiền lãi vào số tài khoản trên. Với phương thức thủ đoạn trên từ tháng 11/2021 đến ngày 10/03/2023, L và L1 đã cho 11 người vay tiền, cụ thể như sau:

- Cho anh Nguyễn Đắc Đ, sinh năm 1986 trú tại thôn B, xã TG, huyện T1, tỉnh T2 vay tổng số tiền là 85.000.000 đồng và đã thu lãi 31.500.000, trong đó số tiền thu lợi bất chính là 25.683.000 đồng:

  • Ngày 13/11/2021, anh Đ vay Vũ Thành L số tiền 5.000.000 đồng, L đồng ý và 2 bên thỏa thuận lãi suất là 3000 đồng/1triệu/1ngày tương đương 108%/1 năm, gấp 5,4 lần mức lãi suất cao nhất theo quy định của Bộ luật Dân sự. Sau đó, L bảo anh Đ đến nhà gặp Vũ Hồng L1 để viết giấy vay và nhận tiền. Từ ngày 13/11/2021 đến ngày 02/02/2022, L và L1 đã thu lợi bất chính số tiền 978.000 đồng.
  • Ngày 14/12/2021, L cho anh Đ vay số tiền 20.000.000 đồng và thỏa thuận lãi suất là 3000 đồng/1triệu/1ngày, anh Đ đến nhà gặp L1 để viết giấy vay và nhận tiền. Từ ngày 14/12/2021 đến ngày 02/02/2022 L và L1 đã thu lợi bất chính số tiền 2.444.000 đồng; cùng ngày Đ đã trả số tiền gốc là 25.000.000 đồng cho L và L1.
  • Ngày 09/02/2022, L cho anh Đ vay số tiền 10.000.000 đồng với lãi suất là 3000 đồng/1triệu/1ngày, anh Đ đến nhà gặp L1 để viết giấy vay tiền. Từ ngày 09/02/2022 đến ngày 19/02/2023, L và L1 đã thu lợi bất chính số tiền 9.044.000 đồng; Đ đã trả tiền gốc cho L và L1.
  • Ngày 11/3/2022, L cho anh Đ vay số tiền 5.000.000 đồng và vẫn thỏa thuận lãi suất như trên, anh Đ đến nhà gặp L1 để viết giấy vay tiền. Từ ngày 11/3/2022 đến ngày 19/02/2023, L và L1 đã thu lợi bất chính số tiền 4.131.000 đồng, Đ đã trả tiền gốc cho L và L1.
  • Ngày 03/8/2022, L cho anh Đ vay số tiền 5.000.000 đồng, cũng lãi suất và phương thức như trên. Từ ngày 03/8/2022 đến ngày 19/02/2023, L và L1 đã thu lợi bất chính số tiền 2.396.000 đồng, Đ đã trả tiền gốc cho L và L1.
  •  Ngày 22/8/2022, L tiếp tục cho anh Đ vay số tiền 10.000.000 đồng, vẫn thỏa thuận lãi suất và phương thức như trên. Từ ngày 22/8/2022 đến ngày 19/02/2023, L và L1 đã thu lợi bất chính số tiền 4.327.000 đồng; Đ đã trả tiền gốc cho L và L1.
  • Ngày 07/12/2022, L cho anh Đ vay số tiền 10.000.000 đồng, vẫn thỏa thuận lãi suất và phương thức như trên, anh Đ đến nhà gặp L1 để viết giấy vay tiền. Từ ngày 07/12/2022 đến ngày 19/02/2023, L và L1 đã thu lợi bất chính số tiền 1.760.000 đồng; Đ đã trả tiền gốc cho L và L1.
  • Ngày 10/02/2023, L cho anh Đ vay số tiền 5.000.000 đồng, L đồng ý và thỏa thuận lãi suất 5000 đồng/1 triệu/ngày, tương đương 180%/1 năm gấp 9 lần mức lãi suất cao nhất theo quy định của Bộ luật Dân sự, anh Đ đến nhà gặp L1 để viết giấy vay tiền. Từ ngày 10/02/2023 đến ngày 19/02/2023, L và L1 đã thu lợi bất chính số tiền 200.000 đồng; Đ đã trả tiền gốc cho L và L1.
  • Ngày 28/02/2023, L cho anh Đ tiếp tục vay số tiền 12.000.000 đồng, và thỏa thuận lãi suất 3000 đồng/1 triệu/ngày, tương đương 108%/1 năm gấp 5,4 lần mức lãi suất cao nhất theo quy định của Bộ luật Dân sự, anh Đ đến nhà gặp L1 để viết giấy vay tiền. Từ ngày 28/02/2023 đến ngày 10/3/2023, L và L1 đã thu lợi bất chính số tiền 353.000 đồng; hiện Đ đã trả tiền gốc cho L và L1.
  •  Ngày 03/3/2023, L cho anh Đ vay số tiền 3.000.000 đồng, vẫn thỏa thuận lãi suất 3000 đồng/1 triệu/ngày, tương đương 108%/1 năm gấp 5,4 lần mức lãi suất cao nhất theo quy định của Bộ luật Dân sự. Từ ngày 03/3/2023 đến ngày 10/3/2023, L và L1 thu lợi bất chính số tiền 51.000 đồng; hiện Đ đã trả tiền gốc cho L và L1.

- Vũ Thành L và Vũ Hồng L1 cho anh Phạm Văn L, sinh năm 2002, trú tại thôn DL, xã NT, huyện T1 vay tổng số tiền 9.000.000 đồng, lãi theo thỏa thuận là 7.320.000 đồng, đã thu lãi 7.200.000 đồng, trong đó số tiền thu lợi bất chính là 6.506.000 đồng. cụ thể:

  • Ngày 19/3/2022, anh Phạm Văn L hỏi Vũ Thành L vay số tiền 2.000.000 đồng thỏa thuận mức lãi suất là 5000 đồng/1triệu/1ngày tương đương 180%/1 năm gấp 9 lần mức lãi suất cao nhất theo quy định của Bộ luật Dân sự. Vũ Thành L bảo L1 chuyển khoản từ tài khoản ngân hàng BIDV số 47110000498088 mang tên Vũ Hồng L1 đến số tài khoản ngân hàng Agribank số 3404205309299 của Phạm Văn L. Từ ngày 19/3/2022 đến ngày 10/3/2023, Vũ Thành L và L1 đã thu lợi bất chính số tiền 3.120.000 đồng; hiện Phạm Văn L đã trả tiền gốc.
  • Ngày 02/9/2022, Vũ Thành L cho anh Phạm Văn L tiếp tục vay số tiền 2.000.000 đồng, hai bên thỏa thuận mức lãi suất là 5000 đồng/1triệu/1ngày tương đương 180%/1 năm gấp 9 lần mức lãi suất cao nhất theo quy định của Bộ luật Dân sự. Vũ Thành L đã đưa tiền trực tiếp cho Phạm Văn L. Từ ngày 02/9/2022 đến ngày 10/3/2023, L và L1 đã thu lợi bất chính số tiền 1.671.000 đồng; hiện Phạm Văn L đã trả tiền gốc.
  • Ngày 03/12/2022, Vũ Thành L cho anh Phạm Văn L tiếp tục vay số tiền 2.000.000 đồng, hai bên thỏa thuận mức lãi suất như trên. Vũ Thành L đã đưa tiền trực tiếp cho Phạm Văn L. Từ ngày 03/12/2022 đến ngày 10/3/2023, L và L1 đã thu lợi bất chính số tiền 862.000 đồng; hiện Phạm Văn L đã trả tiền gốc.
  • Ngày 06/01/2023, anh Phạm Văn L tiếp tục vay của L số tiền 3.000.000 đồng, hai bên thỏa thuận mức lãi suất như trên. Vũ Thành L đã đưa tiền trực tiếp cho Phạm Văn L. Từ ngày 06/01/2023 đến ngày 10/3/2023, L và L1 đã thu lợi bất chính số tiền 853.000 đồng; hiện Phạm Văn L đã trả tiền gốc.

- Vũ Thành L và Vũ Hồng L1 cho anh Nguyễn Hữu Ph, sinh năm 1983, trú tại thôn PTĐ, xã PC, huyện T1 vay số tiền 2.000.000 đồng và đã thu lãi 1.080.000 đồng, trong đó số tiền thu lợi bất chính là 893.000 đồng. cụ thể:

  • Ngày 09/7/2022, anh Ph vay của L số tiền 1.000.000 đồng thỏa thuận lãi suất 3000 đồng/1 triệu/ngày, tương đương 108%/1 năm gấp 5,4 lần mức lãi suất cao nhất theo quy định của Bộ luật Dân sự, L đưa tiền trực tiếp cho Ph. Từ ngày 09/7/2022 đến ngày 10/3/2023, L và L1 đã thu lợi bất chính số tiền 587.000 đồng; hiện Ph đã trả tiền gốc.
  •  Ngày 05/11/2022, L cho anh Ph vay số tiền 1.000.000 đồng, thỏa thuận lãi suất 3000 đồng/1 triệu/ngày, L đưa tiền trực tiếp cho Ph. Từ ngày 05/11/2022 đến ngày 10/3/2023, L và L1 đã thu lợi bất chính số tiền 306.000 đồng; hiện Ph đã trả tiền gốc.

- Ngày 28/5/2021, chị Trần Thanh Ng sinh năm 1984 trú tại thôn C, xã TG, huyện T1, tỉnh T2 vay L số tiền 6.000.000 đồng với mức lãi suất là 5000 đồng/1triệu/1ngày tương đương 180%/1 năm gấp 9 lần mức lãi suất cao nhất theo quy định của Bộ luật Dân sự. Sau đó, L bảo chị Nga đến nhà gặp Vũ Hồng L1 để viết giấy vay và nhận tiền. Từ ngày 28/5/2022 đến ngày 10/3/2023, chị Nga đã trả tiền lãi là 8.100.000 đồng, tiền lãi theo thỏa thuận là 8.460.000 đồng, trong đó thu lợi bất chính số tiền 7.520.000 đồng; hiện Nga đã trả tiền gốc.

- Ngày 09/11/2022, anh Đỗ Lâm Th sinh năm 1988 trú tại thôn B, xã TG, huyện T1 vay của L số tiền 9.000.000 đồng với mức lãi suất là 4000 đồng/1triệu/1ngày tương đương 144%/1 năm gấp 7,2 lần mức lãi suất cao nhất theo quy định của Bộ luật Dân sự. Sau đó, L bảo anh Thao đến nhà gặp Vũ Hồng L1 để viết giấy và nhận tiền vay. Từ ngày 09/11/2022 đến ngày 10/3/2023, anh Thao đã trả tiền lãi 4.320.000 đồng, tiền lãi theo thỏa thuận 4.356.000 đồng, trong đó thu lợi bất chính số tiền 3.751.000 đồng; hiện Thao đã trả tiền gốc.

- Vũ Thành L và Vũ Hồng L1 cho anh Nguyễn Văn T sinh năm 1984, trú tại thôn PTĐ, xã PC, huyện T1 vay tổng số tiền là 10.000.000 đồng và đã thu lãi là 7.650.000 đồng, số lãi theo thỏa thuận là 8.070.000 đồng, trong đó số tiền thu lợi bất chính là 6.575.000 đồng. cụ thể:

  • Ngày 30/5/2022, anh T vay của L số tiền 5.000.000 đồng với mức lãi suất là 3000 đồng/1triệu/1ngày tương đương 108%/1 năm gấp 5,4 lần mức lãi suất cao nhất theo quy định của Bộ luật Dân sự. Sau đó, L bảo anh T đến nhà gặp Vũ Hồng L1 để làm thủ tục vay và nhận tiền. Từ ngày 30/5/2022 đến ngày 10/3/2023 L, L1 đã thu lợi bất chính số tiền 3.422.000 đồng; hiện T đã trả tiền gốc.
  • Ngày 22/6/2022, L tiếp tục cho anh T vay số tiền 5.000.000 đồng với lãi suất 3000 đồng/1triệu/1ngày. Sau đó L về nhà lấy tiền của L1 cầm đến công ty đưa cho anh T. Từ ngày 22/6/2022 đến ngày 10/3/2023, L, L1 đã thu lợi bất chính số tiền 3.153.000 đồng; hiện T đã trả tiền gốc.

- Vũ Thành L và Vũ Hồng L1 cho anh Phạm Văn L sinh năm 1981, trú tại tổ dân phố số x, thị trấn T1, huyện T1 vay tổng số tiền là 11.000.000đồng, đã thu lãi 14.850.000 đồng, số lãi theo thỏa thuận là 15.174.000 đồng, trong đó số tiền thu lợi bất chính là 12.367.000 đồng. cụ thể:

  •  Ngày 28/11/2021, anh L vay của L số tiền 5.000.000 đồng với mức lãi suất là 3000 đồng/1triệu/1ngày tương đương 108%/1 năm gấp 5,4 lần mức lãi suất cao nhất theo quy định của Bộ luật Dân sự. Sau đó, L bảo anh L đến nhà gặp Vũ Hồng L1 để viết giấy và nhận tiền. Từ ngày 28/11/2021 đến ngày 10/3/2023 , L, L1 đã thu lợi bất chính số tiền 5.650.000 đồng; hiện L đã trả tiền gốc.
  •  Ngày 02/12/2021, L tiếp tục cho anh L vay số tiền 6.000 đồng với mức lãi suất là 3000 đồng/1triệu/1ngày. Sau đó L về nhà lấy tiền của L1 cầm đến công ty đưa cho anh L. Các tháng sau đó anh L gặp L để trả tiền lãi bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản vào số tài khoản ngân hàng BIDV của Vũ Hồng L1. Từ ngày 02/12/2021 đến ngày 10/3/2023 , L, L1 đã thu lợi bất chính số tiền 6.717.000 đồng; hiện L đã trả tiền gốc.

- Vũ Thành L và Vũ Hồng L1 cho anh Vũ Tiến D sinh năm 1986 trú tại thôn TT, xã ĐL, huyện T1 vay tổng số tiền là 5.000.000đồng, đã thu lãi 450.000 đồng, số lãi theo thỏa thuận là 831.000 đồng, trong đó số tiền thu lợi bất chính là 677.000 đồng, cụ thể:

  • Ngày 11/01/2023, anh Vũ Tiến D sinh năm 1986 trú tại thôn TT, xã ĐL, huyện T1, vay của L vay số tiền 2.000.000 đồng hai bên thỏa thuận mức lãi suất là 3000 đồng/1triệu/1ngày tương đương 108%/1 năm gấp 5,4 lần mức lãi suất cao nhất theo quy định của Bộ luật Dân sự. Sau đó, L về nhà gặp Vũ Hồng L1 để lấy tiền và cầm đến công ty đưa cho anh D vay. Từ ngày 11/01/2023 đến ngày 10/3/2023 L, L1 đã thu lợi bất chính số tiền 288.000 đồng; hiện D đã trả tiền gốc.
  •  Ngày 17/01/2023, L cho anh D vay số tiền 3.000.000 đồng với mức lãi suất là 3000 đồng/1triệu/1ngày. Các tháng sau đó anh D gặp L ở công ty để trả tiền lãi bằng tiền mặt trực tiếp. Từ ngày 17/01/2023 đến ngày 10/3/2023 thu lợi bất chính số tiền 389.000 đồng; hiện D đã trả tiền gốc.

- Vũ Thành L và Vũ Hồng L1 cho Trần Văn Ph, sinh năm 1977, trú tại thôn DC, xã DM, huyện T1 vay tổng số tiền là 14.000.000đồng, đã thu lãi 392.000 đồng, số lãi theo thỏa thuận là 402.000 đồng, trong đó số tiền thu lợi bất chính là 327.000 đồng. cụ thể:

  • Ngày 16/02/2023, anh Ph vay của L số tiền 2.000.000 đồng thỏa thuận mức lãi suất là 3000 đồng/1triệu/1ngày, tương đương 108%/1 năm gấp 5,4 lần mức lãi suất cao nhất theo quy định của Bộ luật Dân sự. Sau đó, L về gặp L1 lấy số tiền trên cầm đến công ty đưa cho Ph vay. Từ ngày 16/02/2023 đến ngày 23/2/2023, thu lợi bất chính số tiền 34.000 đồng; hiện Ph đã trả tiền gốc.
  •  Ngày 01/3/2023, L tiếp tục cho anh Ph vay số tiền 12.000.000 đồng với mức lãi suất là 3000 đồng/1triệu/1ngày. Cùng ngày, anh Ph đến nhà L1 để viết giấy vay tiền và nhận tiền vay. Từ ngày 01/3/2023 đến ngày 10/3/2023 đã thu lợi bất chính số tiền 293.000 đồng;

- Ngày 22/12/2022, anh Trần Đức Ch sinh năm 1981, trú tại thôn PTĐ, xã PC, huyện T1, vay của L số tiền 7.000.000 đồng, hai bên thỏa thuận mức lãi suất là 4000 đồng/1triệu/1ngày tương đương 144%/1 năm gấp 7,2 lần mức lãi suất cao nhất theo quy định của Bộ luật Dân sự. Sau đó, L về gặp L1 lấy số tiền 7.000.000 đồng để đưa cho Ch vay, các tháng sau đó anh Ch gặp L ở công ty để trả tiền lãi bằng tiền mặt trực tiếp. Đến ngày 19/02/2023, anh Ch đã trả số tiền gốc vay cho L. Từ ngày 22/12/2022 đến ngày 19/2/2023 , anh Ch đã trả lãi 1.680.000 đồng, trong đó thu lợi bất chính số tiền 1.458.000 đồng.

- Ngoài ra ngày 03/2/2023 Vũ Hồng L1 còn cho Phạm Thế V sinh năm 1983 trú tại thôn MC, xã DM, huyện T1, vay số tiền 30.000.000 đồng, lãi suất thỏa thuận 3000 đồng/1 triệu/ngày, tương đương tương đương 108%/1 năm gấp 5,4 lần mức lãi suất cao nhất theo quy định của Bộ luật Dân sự. Từ ngày 03/2/2023 đến ngày 10/3/2023, V đã trả lãi là 2.700.000 đồng, lãi suất theo thỏa thuận là 3.330.000 đồng, trong đó thu lợi bất chính số tiền 2.700.000 đồng (đối với khoản cho vay này bị cáo L không biết). Hiện V chưa trả tiền gốc. 

     Như vậy trong khoảng thời gian từ ngày 13/11/2021 đến ngày 10/3/2023, Vũ Thành L, Vũ Hồng L1 đã cho anh Nguyễn Đắc Đ, Đỗ Lâm Th, Vũ Tiến D , Nguyễn Hữu Ph , Trần Đức Ch, Nguyễn Văn T , Trần Văn Ph , Phạm Văn L, Phạm Văn L, chị Trần Thanh Ng vay tổng số tiền là 158.000.000 đồng với mức lãi suất từ 3.000 đồng/1.000.000 đồng/1 ngày đến 5.000 đồng/1.000.000 đồng/1 ngày (gấp từ 5.4 đến 9 lần so với mức lãi suất cao nhất theo quy định của Bộ luật Dân sự). Tổng số tiền lãi L, L1 đã thỏa thuận với những người vay là là 78.888.000 đồng, đã nhận được là 77.222.000 đồng, trong đó thu lợi bất chính là 65.757.000 đồng.

     Ngoài ra Vũ Hồng L1 còn cho anh Phạm Thế V vay số tiền 30.000.000 đồng với mức lãi suất 3000 đồng/1.000.000 triệu/ngày (gấp 5,4 lần mức lãi suất cao nhất theo quy định của Bộ luật Dân sự) thu lời bất chính riêng số tiền 2.700.000 đồng. Quá trình điều tra, các bị cáo Vũ Thành L và Vũ Hồng L1 thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên.

     Tại Cáo trạng số 61/CT-VKSTH ngày 06/7/2023, Viện Kiểm sát nhân dân huyện T1, tỉnh T2 quyết định truy tố các bị cáo Vũ Thành L và Vũ Hồng L1 về tội “Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự” theo khoản 1 Điều 201 Bộ luật Hình sự. Vị đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố tại phiên tòa sơ thẩm vẫn giữ nguyên quan điểm như đã truy tố về tội danh, điều luật như nội dung bản cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Vũ Thành L và Vũ Hồng L1 phạm tội “Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự”:

- Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 201; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 35, Điều 50; Điều 58 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Vũ Thành L , Vũ Hồng L1 mỗi bị cáo từ 70.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

- Về biện pháp tư pháp: Áp dụng khoản 1 Điều 46, khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự. 

  • Buộc bị cáo L phải nộp lại số tiền 6.567.000 đồng tiền lãi theo mức lãi suất cao nhất của Bộ luật dân sự để sung quỹ Nhà nước. 
  • Bị cáo L phải trả lại số tiền thu lời bất chính cho anh Trần Văn Ph là 163.500 đồng; anh Phạm Văn L là 3.253.000 đồng. 
  • Buộc bị cáo L1 phải nộp lại số tiền 158.000.000 đồng tiền gốc và 7.184.000 đồng tiền lãi theo mức lãi suất cao nhất của Bộ luật dân sự để sung quỹ Nhà nước. 
  • Bị cáo L1 phải trả lại số tiền thu lời bất chính cho anh Phạm Thế V là 2.700.000 đồng Trần Văn Ph là 163.500 đồng; anh Phạm Văn L là 3.253.000 đồng,. 

  • Truy thu số tiền 30.000.000 đồng nợ gốc của anh Phạm Thế V chưa trả cho Vũ Hồng L1 để sung quỹ Nhà nước.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu hóa giá sung quỹ nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 12 màu tím (kèm sim số 0966628681); 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu xanh rêu (kèm sim số 0906250965). Về án phí mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

     Các bị cáo đồng ý với tội danh, hình phạt mà Viện kiểm sát truy tố, không tranh luận gì. Trong lời nói sau cùng, các bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt.

_Xem toàn bộ văn bản>>>>Bản án số 61 ngày 28/07/2023

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét